Áp lực và những đổi thay của chuỗi cung ứng toàn cầu

Hậu Covid – 19, các chuỗi cung ứng toàn cầu vốn đã bình thường hóa giờ lại bị phá vỡ bởi áp lực của thị trường và biến động địa chính trị. Vấn đề là rất khó để các chuỗi cung ứng này có thể hàn gắn lại trong một sớm một chiều…

Chỉ số áp lực chuỗi cung ứng toàn cầu (GSCPI) được tính toán dựa trên dữ liệu ngành sản xuất và vận tải nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về khả năng gián đoạn chuỗi cung ứng. Phân tích dữ liệu lạm phát toàn cầu và Chỉ số GSCPI do Cục Dự trữ Liên bang (FED) New York công bố cho thấy có mối tương quan chặt chẽ hơn giữa gián đoạn chuỗi cung ứng và lạm phát so với trước giai đoạn đại dịch, đặc biệt là ở Anh, khu vực đồng euro và Mỹ. Nếu như thời điểm tháng 2/2023, GSCPI giảm xuống mức trước đại dịch thì bước sang tháng 3, chỉ số này thậm chí còn giảm xuống dưới mức trung bình trong lịch sử 25 năm theo dõi.

Một số người cho rằng GSCPI đi xuống báo hiệu tình trạng thiếu hụt sản phẩm, tắc nghẽn cảng, gián đoạn vận chuyển trong ba năm qua đã đi đến hồi kết và một kỷ nguyên ổn định mới sẽ được mở ra. Tuy nhiên theo các chuyên gia trong ngành, Chỉ số GSCPI trở lại bình thường không có nghĩa là các công ty đa quốc gia đang quay trở lại chuỗi cung ứng trước đây của họ. Áp lực của thị trường cộng với các biến động địa chính trị đang góp phần tạo ra những thay đổi lớn hơn, dài hạn hơn trong chuỗi cung ứng; thậm chí là ở cả khâu nguyên liệu thô, sản xuất và phân phối sản phẩm.

Chúng ta có thể nhận thấy rõ những đổi thay này tại các nhà máy ở Ấn Độ, các cơ sở lắp ráp ôtô ở miền bắc Mexico, các cảng từ Đông Nam của Mỹ đến Đông Phi hay các mỏ khoáng sản ở Canada, Thụy Điển. Đây là nơi các công ty đang thực hiện nguyên tắc về khả năng phục hồi, khu vực hóa và đa dạng hóa nhà cung cấp – những ưu tiên hàng đầu khi đối phó với các đợt phong tỏa năm 2020.

Ông Patrick Van den Bossche – Chuyên gia phân tích tại Công ty tư vấn Kearney nhận định tình trạng căng thẳng trong chuỗi cung ứng và thiếu hụt nguồn cung đang dần lắng xuống nhưng một điều chắc chắn là chuỗi cung ứng vẫn chưa thể trở lại bình thường. Có rất nhiều thứ đã thay đổi và cần thời gian để quay trở lại trật tự cũ.

Những thay đổi bên ngoài dễ nhận thấy là các công ty đa quốc gia đã giảm phụ thuộc vào hoạt động sản xuất ở Trung Quốc. Họ chủ động sử dụng các công nghệ tự động hóa nhiều hơn để duy trì hoạt động của dây chuyền lắp ráp và nhà kho. Đơn cử Apple đang chuyển một số hoạt động sản xuất iPhone từ Trung Quốc sang Ấn Độ. Nhà sản xuất đồ chơi Mattel (Mỹ) thì mở rộng sản xuất sang  Mexico. Trong khi đó Hisense (Trung Quốc) cũng đang tìm cách sản xuất các thiết bị gia dụng ở Mexico để cung cấp cho thị trường Mỹ.

Tuy nhiên các chuyên gia cho biết sẽ có nhiều thay đổi mang tính lâu dài hơn và tác động lớn hơn đến cách các công ty thu mua nguyên liệu và linh kiện, nơi họ sản xuất hàng hóa và cách họ vận chuyển thành phẩm đến tay người tiêu dùng. Nhìn chung, những chuyển biến này sẽ đánh dấu sự thay đổi lớn nhất trong cách các công ty đa quốc gia quản lý chuỗi cung ứng kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2001, giúp mở ra một kỷ nguyên toàn cầu hóa mới.

Cũng theo các chuyên gia, chuỗi cung ứng ở thời kỳ hậu đại dịch đang được xây dựng với trọng tâm là khu vực hóa. Điều này đồng nghĩa với các công ty đa quốc gia có xu hướng đưa hoạt động sản xuất về nơi gần hơn với các thị trường chính của họ. Ngoài ra để tránh phụ thuộc vào một nguồn cung ứng đơn lẻ, các công ty này cũng đang nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng bằng cách mở rộng mạng lưới nhà cung cấp trên thế giới; đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ tự động hóa vào mọi thứ, từ hoạt động nhà kho cho đến thu mua nguyên vật liệu. “Những thay đổi này sẽ giúp chuỗi cung ứng có khả năng chống lại sự gián đoạn tốt hơn. Các công ty đang chuyển từ mô hình dựa vào lợi thế quy mô để đạt được hiệu quả tài chính cao nhất sang mô hình có nhiều dự phòng trong mạng lưới cung ứng. Làn sóng di dời cơ sở sản xuất khỏi Trung Quốc chỉ mới bắt đầu; các công ty vẫn đang tiếp tục tìm kiếm các phương án hiệu quả để xây dựng nhiều chuỗi cung ứng khu vực hơn” – ông Patrick Van den Bossche nhận xét

Còn theo nhà tư vấn Rick Gabrielson – Cựu giám đốc vận tải cấp cao tại Target và Lowe’s, nhiều công ty đang xem xét lại chiến lược tìm nguồn cung ứng, bao gồm khả năng liệu họ có đang tập trung thu mua quá nhiều hàng hóa hoặc linh kiện từ một quốc gia hay một nhà cung cấp duy nhất không?

Có thể thấy thay đổi lớn nhất trong chiến lược chuỗi cung ứng do tác động của đại dịch Covid – 19 có lẽ là quan điểm về hàng tồn kho. Trước đại dịch, các công ty thực hiện chiến lược tinh gọn để cắt giảm chi phí và nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, sau thời gian dài thiếu hụt sản phẩm và nhà máy phải ngừng hoạt động vì thiếu linh kiện, các doanh nghiệp này nhận ra họ cần dự trữ lượng hàng đủ lớn để điều hòa giá cả nếu nguồn cung bị gián đoạn đột ngột.

Theo thời gian, các công ty sẽ thích nghi bằng cách trữ nhiều hàng tồn kho hơn. Ngoài ra họ cũng có thể quản lý rủi ro bằng những cách khác, chẳng hạn như tìm thêm nhà cung cấp. Chiến lược khu vực hóa sản xuất cũng sẽ giúp giảm thiểu rủi ro thiếu hụt nguồn cung nhờ các dây chuyền cung ứng không nằm quá xa. Tuy nhiên các thách thức để tái định hình chuỗi cung ứng cũng không nhỏ; chưa kể việc dàn trải nhà cung cấp sẽ đội thêm phần chi phí. Yêu cầu đặt ra là các công ty phải cân bằng được thách thức này với khả năng xảy ra gián đoạn trong tương lai.

Ngoài ra quy định về môi trường ngày càng khắt khe và nỗ lực cắt giảm khí thải carbon cũng khiến kế hoạch đa dạng hóa nguồn cung ứng phức tạp hơn. “Tại Mỹ, Ủy ban Chứng khoán đang thúc đẩy kế hoạch yêu cầu các công ty tiết lộ lượng khí thải carbon của chính họ và các nhà cung cấp. Yêu cầu sản xuất bền vững, thân thiện với môi trường cũng sẽ khiến doanh nghiệp gánh thêm chi phí” – ông Gabrielson nhận định.

Ông Yossi Sheffi – Giám đốc Trung tâm Vận tải và Hậu cần của Viện Công nghệ Massachusetts cho biết việc tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại để tăng tốc sản xuất và vận chuyển hàng hóa trong giai đoạn dịch bệnh sẽ có tác động lâu dài đến chuỗi cung ứng. “Hậu Covid – 19, các công ty hàng tiêu dùng đã nhanh chóng điều chỉnh lại chuỗi cung ứng bằng cách cắt giảm dòng sản phẩm, thiết lập lại nguồn cung và sử dụng các công cụ khác để hồi phục. Các doanh nghiệp đã học được nhiều điều mà họ không nghĩ là có thể, nhất là việc nhanh nhạy thích ứng với biến động thị trường và đây mới là bài học quan trọng nhất” – ông Yossi Sheffi nhấn mạnh.

Hoàng Huy