IMF dự báo đến cuối năm 2024 , GDP các nền kinh tế mới nổi sẽ thấp hơn 6% so với trước đại dịch

Vốn nuôi hy vọng gia nhập hàng ngũ các quốc gia giàu có song những năm gần đây các nền kinh tế mới nổi liên tiếp đối mặt với một loạt thảm họa: thương chiến Mỹ – Trung, đại dịch Covid – 19, chuỗi cung ứng đứt gãy, lạm phát leo thang, chiến sự Nga – Ukraine…Chính những khó khăn này đã đẩy các nền kinh tế mới nổi đứng trước nguy cơ “thập kỷ mất mát” (thuật ngữ chỉ giai đoạn tăng trưởng chậm).

Người dân xếp hàng để mua dầu hỏa về sử dụng trong gia đình tại một trạm xăng ở Colombo vào ngày 17/3. Ảnh: AFP

Theo dự báo của IMF, trong năm 2022 này sản lượng kinh tế trên các thị trường mới nổi sẽ tăng 3,8% và năm 2023 sẽ tăng 4,4%. Đây là những con số đã được điều chỉnh giảm mạnh vào năm ngoái và thấp hơn mức trung bình 5%/năm trong thập kỷ trước khi Covid-19 xuất hiện.

Thực tế cho thấy trước đây, cụ thể là vào những năm 1980 – 1990, các nền kinh tế mới nổi cũng đã từng trải qua thời kỳ khó khăn như vậy và giáo sư kinh tế William Easterly của Đại học New York đã mô tả khoảng thời gian này là “những thập kỷ mất mát”.

Trong 10 năm qua, tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm ở các nền kinh tế mới nổi đã giảm xuống dưới 0. Và phải đến cuối những năm 1990 trở đi, GDP bình quân đầu người mới tăng trở lại, thắp lên những tia hy vọng mới.

Tuy nhiên thời gian gần đây nguy cơ khủng hoảng đã quay trở lại. Các thị trường mới nổi phải đối mặt với những trở ngại về cấu trúc (các thách thức tài chính, các mô hình thương mại thay đổi…), y hệt những khó khăn mà họ đã từng đối mặt trong những năm 1980 – 1990. Trong đó áp lực tài chính là mối đe dọa nghiêm trọng nhất. Vào đầu những năm 1980, để kiềm chế lạm phát, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã tăng đáng kể lãi suất và điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các nền kinh tế nghèo, vốn đã vay nặng lãi trong những năm trước đó.

Thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy trong số 70 quốc gia có thu nhập thấp trên thế giới thì hơn 10% (bao gồm cả Chad, Somalia) phải đối mặt với tình trạng nợ không bền vững, 50% (bao gồm Ethiopia, Lào) có nguy cơ cao đối mặt với tình trạng nợ không bền vững. Trong khi một thập kỷ trước, chỉ khoảng 1/3 các nước nghèo đang hoặc có nguy cơ cao lâm vào cảnh túng quẫn như vậy.

Chưa kể khủng hoảng Ukraine đã đẩy chi phí lương thực và năng lượng tăng cao. Còn với các nước nhập khẩu, điều này làm tăng chi phí trợ cấp lương thực và năng lượng, làm cạn kiệt dự trữ ngoại tệ và gia tăng áp lực lên tăng trưởng kinh tế.

Giá cả tăng cũng tạo áp lực buộc các ngân hàng trung ương ở các nước giàu có trên thế giới phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Các chuyên gia dự báo Fed sẽ nâng lãi suất cơ bản lên gần 3 điểm phần trăm vào năm 2022 và đây sẽ là mức tăng lãi suất lớn nhất trong một năm, kể từ thời điểm đầu những năm 1990 đến nay. Cùng với thu hẹp bản cân đối kế toán, việc thắt chặt tiền tệ năm nay của Fed cũng được xem là động thái mạnh mẽ nhất kể từ những năm 1980.

Tuy nhiên những động thái này đang tạo áp lực lớn lên các nền kinh tế mới nổi vốn rất dễ bị tổn thương. Dòng vốn chảy ngược về Mỹ để tận dụng tỷ giá cao hơn. Đồng USD cũng dần mạnh lên và tăng hơn 10% trong năm qua. Chính điều này đã đẩy chi phí ở các nước mới nổi tăng cao. Kể từ mùa hè năm 2021, trung bình lợi suất từ khoản nợ bằng đồng nội tệ của các nền kinh tế mới nổi đã tăng hơn 1/3. Theo IMF, tỷ lệ của các nhà phát hành trái phiếu gặp khó khăn trong thanh toán (Ukraine, Ai Cập, Ghana) đã tăng hơn gấp đôi. Nhiều quốc gia có thể sẽ nối gót Sri Lanka – quốc gia đã vỡ nợ hôm 12/4. Tuy nhiên vẫn có giải pháp để tránh được những cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống. Đơn cử nhiều nền kinh tế có thu nhập trung bình đã tăng cường khả năng phòng vệ tài chính của mình bằng cách tăng cường dự trữ ngoại hối; các nhà đầu tư cũng trở nên sáng suốt hơn.

Một thách thức khác đến từ thương mại toàn cầu. Giai đoạn 1960 – 1980, tỷ trọng thương mại hàng hóa trên GDP tại các nền kinh tế mới nổi đã tăng gấp đôi, từ 9% lên 18%. Tuy nhiên bước sang những thập kỷ mất mát, tỷ trọng tăng trưởng này đã sụt giảm.

Thương mại sau đó đã tăng vọt trở lại khi chuỗi cung ứng toàn cầu mở rộng trên khắp khu vực Đông và Đông Nam Á nói riêng. Tuy nhiên sự liên kết này lại một lần nữa gặp rủi ro. Thương mại toàn cầu thường bị chi phối bởi các nhân tố: căng thẳng địa chính trị; xu hướng các quốc gia tự cung tự cấp; lo ngại về độ tin cậy của chuỗi cung ứng. Chính những nhân tố này đã làm giảm cơ hội cho các nước nghèo được vay mượn công nghệ, bí quyết từ các công ty nước ngoài cũng như bán hàng cho giới giàu có.

Ngoài ra nền kinh tế toàn cầu cũng sẽ chịu sự tác động của Trung Quốc – thị trường mới nổi lớn nhất và cũng là động lực tăng trưởng chính của thế giới. Giai đoạn 1970 – 2000, châu Mỹ và châu Âu chiếm gần 50% tăng trưởng GDP toàn cầu. Kể từ những năm 1970, tăng trưởng các nước giàu bắt đầu suy giảm mạnh và chính điều này đã đè nặng lên nền kinh tế toàn cầu cũng như các nền kinh tế mới nổi. Chỉ đến năm 2000, kinh tế thế giới mới có cơ hội bùng nổ lại khi Trung Quốc vươn lên đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng toàn cầu so với Mỹ và châu Âu cộng lại. Còn ở thời điểm hiện tại, GDP của Trung Quốc có nguy cơ giảm tốc với mức tăng trưởng năm 2022 dự báo khoảng 5%. Mặc dù sự sụt giảm này sẽ không khiến kinh tế toàn cầu rơi vào trì trệ song các đợt phong tỏa, thị trường bất động sản nguội lạnh vẫn có thể gây ra thiệt hại lớn.

Trong bối cảnh khó khăn chung, một số thị trường mới nổi có thể được hưởng lợi. Để giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc, các công ty đa quốc gia có thể chuyển hoạt động sản xuất sang các nước có chi phí thấp. Các nước giàu hy vọng ngăn cản những nước nghèo xích lại gần Nga và Trung Quốc có thể hạ thấp các rào cản thương mại và tăng cường đầu tư ra nước ngoài. Giá hàng hóa cao kéo dài sẽ tăng doanh thu cho các nhà xuất khẩu thực phẩm, năng lượng và kim loại.

Tuy nhiên về tổng thể, các khoản nợ cao hơn cộng với hiệu quả thấp trong đầu tư vào vốn, nhân lực và cơ sở vật chất trong những năm qua sẽ gây ra hậu quả nặng nề. IMF dự báo đến cuối năm 2024 , GDP các nền kinh tế mới nổi sẽ vẫn thấp hơn khoảng 6% so với trước đại dịch; trong khi đó GDP của hầu hết các nước giàu dự kiến sẽ chỉ thấp hơn dưới 1%.

Huy Hoàng