Xu hướng dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc và sự lên ngôi của Friend-Shoring

Đặt trong bối cảnh đại dịch Covid – 19 tàn phá và chiến sự căng thẳng Nga – Ukraine, chuỗi cung ứng toàn cầu càng bộc lộ rõ những hạn chế, yếu kém, buộc nhiều nước phải chuyển sang chiến lược Friend-Shoring (sản xuất tại các quốc gia bằng hữu).

Người tiêu dùng mua sắm trong một cửa hàng tạp hóa ở San Francisco, California. Ảnh: Bloomberg

Điển hình cho chiến lược Friend-Shoring chính là việc Mỹ và các đồng minh ở châu Âu, châu Á – Thái Bình Dương đang thúc đẩy việc sản xuất và kinh doanh hàng thiết yếu tại các quốc gia thân thiện. Đặc biệt sau hàng loạt biến cố như thương chiến Mỹ-Trung, đại dịch Covid-19 hay xung đột Nga – Ukraine, những “ông lớn” toàn cầu như Samsung Electronics, GAP.. cũng đã chuyển sang theo đuổi xu hướng này.

Đối với những quốc gia ủng hộ Friend-Shoring, họ xem đây là sự kết hợp hài hòa giữa toàn cầu hóa và cô lập, giữa sản xuất ở nước ngoài và sản xuất nội địa. Đây cũng đồng thời là cơ hội cải tiến chuỗi cung ứng toàn cầu, tiến tới giảm dần sự phụ thuộc vào những quốc gia tiềm ẩn nhiều rủi ro thương mại như Nga, Trung Quốc. “Sự lan tỏa của Friend-Shoring sẽ giúp giảm thiểu rủi ro cho chính nền sản xuất nội địa cũng như cho các đối tác thương mại đáng tin cậy. Đối với Mỹ,  Friend-Shoring giúp chúng tôi thắt chặt mối quan hệ với các quốc gia có chung chuẩn mực và giá trị về cách vận hành trong nền kinh tế toàn cầu” – Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen nhấn mạnh

Xu hướng Friend-Shoring thể hiện rõ nhất trong các ngành như chất bán dẫn, đất hiếm…; trong đó các công ty tư nhân đang chuyển hướng sản xuất sang các quốc gia mà họ cho là rủi ro chính trị và logistics tương đối thấp.

Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm vượt trội, một số nhà kinh tế cũng bày tỏ sự quan ngại rằng Friend-Shoring sẽ gây tổn hại cho các quốc gia cả giàu lẫn nghèo – vốn đang hưởng lợi từ chính sách toàn cầu hóa thương mại những năm gần đây. Pierre-Olivier Gourinchas – Kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cảnh báo thế giới sẽ phân chia thành các khối riêng biệt, không giao thương nhiều với nhau và có các tiêu chuẩn khác nhau. Sự phân lập này sẽ là thảm họa cho nền kinh tế toàn cầu.

Các chuyên gia khác thì cho rằng Friend-Shoring chỉ là một thuật ngữ ngụy trang cho hoạt động sản xuất ở nước ngoài, thay vì đẩy mạnh sản xuất nội địa để đảm bảo chuỗi cung ứng tốt hơn và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Ông Jamieson Greer – Cựu chánh văn phòng của Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ thời cựu Tổng thống Donald Trump nhấn mạnh Friend-Shoring giống như quá trình toàn cầu hóa không hoàn chỉnh. Cách tiếp cận này sẽ không thành công nếu không nhận được ủng hộ rộng rãi trong nước.

Bên cạnh sự quan ngại đối với chiến lược Friend-Shoring, các nhà kinh tế cũng cho rằng việc dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc có nguy cơ làm gia tăng lạm phát. Dẫu vậy hàng loạt căng thẳng, biến động với nền kinh tế Trung Quốc những năm gần đây buộc các công ty phải dịch chuyển sản xuất ra khỏi nước này theo đuổi chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng, tránh tình trạng “bỏ trứng vào một giỏ”.

Đặt trong bối cảnh đại dịch Covid – 19 tàn phá và chiến sự căng thẳng Nga – Ukraine càng cho thấy sự mong manh của chuỗi cung ứng, buộc nhiều nước phải chuyển sang chiến lược Friend-Shoring. “Chắc hẳn bạn từng nghe câu nói các quốc gia buôn bán với nhau không gây chiến với nhau. Tuy nhiên những biến động trong hai tháng qua đã chứng minh điều ngược lại. Yêu cầu đặt ra lúc này là cần phải đa dạng hóa nguồn cung các mặt hàng chủ lực để đảm bảo chúng ta không hoảng sợ và tuyệt vọng trong lần khủng hoảng tiếp theo” – đại diện Thương mại Mỹ Katherine Tai khuyến nghị.

Báo cáo chuỗi cung ứng của Nhà Trắng cho thấy Trung Quốc hiện tinh chế 60% lithium và 80% coban – hai khoáng sản quan trọng cho pin dung lượng cao. Để giảm bớt sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn khoáng sản của Trung Quốc, Mỹ và Australia đang “bắt tay” cùng xây dựng các cơ sở khai thác và chế biến đất hiếm ở cả hai quốc gia. Sau cuộc họp với các quan chức Australia và các giám đốc doanh nghiệp tại Washington gần đây, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo cho biết Mỹ sẽ cung cấp nguồn tài chính và hỗ trợ pháp lý cần thiết cho lần hợp tác này. Ngoài ra Mỹ và Liên minh châu Âu cũng đang xem xét kế hoạch chi hàng chục tỷ USD để giúp các công ty như Intel xây dựng nhà máy sản xuất chất bán dẫn tiên tiến.

Với các doanh nghiệp may mặc, sau khi rời Trung Quốc, họ có xu hướng dịch chuyển sang các quốc gia Trung Mỹ như Honduras, Guatemala, El Salvador. Dù chất lượng vải và nguồn lao động trong khu vực này chưa thể sánh kịp với Trung Quốc song các công ty lại được hưởng lợi từ việc nằm cận kề thị trường tiêu dùng khổng lồ Mỹ và mức thuế ưu đãi theo các cam kết của hiệp định thương mại tự do.

Nằm trong nhóm hưởng lợi có thể kể đến Công ty Intradeco Holdings (Miami, Mỹ) chuyên sản xuất quần áo ở El Salvador cho các nhà bán lẻ như Walmart, Amazon. Giám đốc Intradec Felix Siman cho biết kể từ mùa xuân năm 2021, công ty của ông đã có thêm 4-5 khách hàng mới, bao gồm PVH – công ty mẹ của Calvin Klein. Trong năm 2022 này, doanh thu của Intradeco sẽ cao hơn 20% so với trước đại dịch. “Các công ty không muốn sản xuất mọi thứ ở Trung Quốc nữa, thay vào đó khu vực Trung Mỹ nói chung – El Salvador nói riêng đang nhận được sự quan tâm rất lớn. Hiện nhu cầu lớn hơn nhiều so với những gì chúng tôi có thể đáp ứng” – ông Intradec Felix Siman tiết lộ.

Thành Long