Việt Nam tận dụng hiệu quả đòn bẩy thương hiệu quốc gia và quyền lực mềm
Thương hiệu quốc gia và quyền lực mềm tăng cao được ví như “chìa khóa” giúp gia tăng giá trị cho sản phẩm cũng như giá trị của doanh nghiệp Việt trên trường quốc tế

Cuối năm 2021, hãng định giá thương hiệu Brand Finance (Anh) công bố, Việt Nam là một trong các quốc gia có mức tăng trưởng giá trị thương hiệu quốc gia nhanh nhất thế giới năm 2020 với 319 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2019; thứ hạng cũng cải thiện từ 42 lên 33. Đặc biệt thứ hạng của Việt Nam trong Bảng xếp hạng quyền lực mềm toàn cầu 2021 cũng đã tăng từ 50/60 lên 47/105 và là quốc gia duy nhất trong khối ASEAN được nâng hạng.
Brand Finance cũng như các chuyên gia kinh tế đánh giá vị trí của Việt Nam trong cả hai bảng xếp hạng có sự cải thiện đáng kể một phần nhờ những thành tựu nổi bật trong cuộc chiến chống dịch Covid-19, góp phần đưa Việt Nam trở thành cứ điểm an toàn và ổn định để các nhà sản xuất dịch chuyển đầu tư
Còn theo Thứ tưởng Bộ Công Thương, Phó Chủ tịch Hội đồng Thương hiệu quốc gia Việt Nam Đỗ Thắng Hải, thành tựu của Việt Nam nhờ vào việc cải cách môi trường đầu tư kinh doanh, mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu và nỗ lực của tự thân các doanh nghiệp. Cũng chính những bước tiến vượt bậc này mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn. “Sức mạnh thương hiệu quốc gia và quyền lực mềm tăng cao sẽ mang lại lợi ích cho Việt Nam trong việc thu hút nhân tài, phát triển du lịch và thu hút dòng vốn FDI. Ngoài ra còn có rất nhiều lợi ích khác như mọi người sẵn sàng trả tiền cao hơn khi mua hàng hoá Việt Nam nhờ uy tín cao cũng như muốn đến đây du lịch…”, ông Samir Dixit – Giám đốc điều hành Brand Finance châu Á – Thái Bình Dương nhận định.
Còn theo ông Thue Quist Thomasen – Thành viên Ban điều hành EuroCham, Việt Nam đã cung ứng cho thị trường quốc tế những sản phẩm – dịch vụ chất lượng cao. Các FTA đã tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam xây dựng thương hiệu ở các quốc gia khác, từ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn và bán được nhiều sản phẩm hơn.
Thống kê cho thấy nếu như năm 2008, Việt Nam chỉ có 30 doanh nghiệp đạt Thương hiệu quốc gia thì năm đến 2020, con số này đã tăng lên 124 doanh nghiệp với 283 sản phẩm, trong đó có nhiều thương hiệu đã bắt đầu gây được tiếng vang trên thị trường khu vực và thế giới. Yêu cầu đặt ra ở đây là làm sao để tận dụng hiệu quả hơn nữa vị thế mới của thương hiệu quốc gia và quyền lực mềm mà Việt Nam vừa cải thiện.
Để làm được điều này, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) Vũ Bá Phú khuyến nghị các doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ. “Hiện nay trong hệ sinh thái của Cục Xúc tiến thương mại đã có sẵn mạng lưới luật sư, hệ thống tham tán…để hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp về quy trình đăng ký sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên vượt lên trên tất cả, chính ý thức chủ động và khả năng phân bổ nguồn lực của doanh nghiệp cho vấn đề này mới giữ vai trò tiên quyết” – ông Phú nhấn mạnh.
Bên cạnh vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, ông Phạm S – Phó Chủ tịch UBND Lâm Đồng cho rằng cần quan tâm tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia khai phá những thị trường giàu tiềm năng, nổi bật ở đây có thể kể đến 4 thị trường lớn là ASEAN, CPTPP, EVFTA, RCEP. Ngoài ra thị trường mới Halal với 2 tỷ dân cũng được xem là mảnh đất hứa hẹn cho các doanh nghiệp. Thị trường đã rộng mở, yêu cầu đặt ra là phải phát triển thêm các thương hiệu sản phẩm. Trong khi thương hiệu quốc gia Việt Nam tăng cao, hàng sản xuất được đánh giá chất lượng nhưng lại không có thương hiệu riêng, mà chỉ đóng vai trò gia công. Đơn cử với mặt hàng giày dép. Mặc dù Việt Nam xuất khẩu giày top 2 thế giới với giá trị đôi giày gia công rất cao, hơn cả giày gia công ở Trung Quốc nhưng lại không có thương hiệu của Việt Nam bán ở nước ngoài mà chỉ có Nike, Adidas, Converse ‘Made in Vietnam’.
Đồng quan điểm, ông Đinh Hồng Kỳ – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Vật liệu xây dựng Secoin nhìn nhận một khi Việt Nam sản xuất quá nhiều thương hiệu gia công thì việc đưa thương hiệu của chính mình ra nước ngoài không phải dễ vì khách hàng vẫn muốn dùng sản phẩm “Made in Vietnam” nhưng dưới thương hiệu của họ.
Chưa kể dù thương hiệu quốc gia Việt Nam đã cải thiện nhưng Việt Nam còn chưa xây dựng được từ khóa về thương hiệu trong tâm thức người nước ngoài. Khi được gắn chặt với một tính chất, đặc điểm cụ thể, hàng Việt Nam sẽ dễ có lợi thế hơn khi muốn chiếm tình cảm người mua. “Mình có rất nhiều điểm mạnh nhưng điểm nào khi hỏi về Việt Nam mà người nước ngoài nói ngay ra được sẽ rất quan trọng. Như khi nói đến Nhật Bản người ta nghĩ ngay đến sự tin tưởng, đề cập đến Đức là nghĩ ngay đến chất lượng…Chỉ khi vị thế quốc gia được khẳng định trên trường quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam mới dễ bán được hàng”, ông Nguyễn Phú Cường – Giám đốc Marketing Công ty Sản xuất Hàng tiêu dùng Bình Tiên (Biti’s) nhấn mạnh.
Ông Lại Tiến Mạnh – Giám đốc Mibrand cũng thừa nhận chính sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam mới là điều quan trọng. Các doanh nghiệp Việt có thể khai thác sự chỉnh chu, chi tiết, kỹ càng, dành nhiều tâm huyết để tạo ra sản phẩm hoàn hảo. Nếu ngày càng có nhiều doanh nghiệp đi theo định hướng chung của Chương trình thương hiệu quốc gia chắc chắn sẽ tạo niềm tin cho các khách hàng nước ngoài.
Hải Giang