Việt Nam có nhiều điều kiện và nguồn lực để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô khi NHTW các nước chấm dứt chính sách nới lỏng tiền tệ

Đó là nhận định tại Báo cáo phân tích về chính sách nới lỏng tiền tệ của một số ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới vừa được Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS) công bố

Điều gì xảy ra khi các NHTW bắt đầu trung hòa chính sách nới lỏng tiền tệ?

Để ứng phó với Covid-19, các NHTW đã tung ra hàng loạt các chính sách tiền tệ nới lỏng chưa từng có tiền lệ. Chỉ trong thời gian ngắn lượng tiền cơ sở đã tăng gấp đôi cho thấy mức độ của các chính sách nới lỏng và theo đó, kéo theo sự tăng giá của các kênh tài sản với điển hình là thị trường cổ phiếu và thị trường các tài sản có mức sinh lời cố định như trái phiếu. Năm 2021 là năm nền kinh tế thế giới được dự báo phục hồi sau đại dịch. Theo thống kê từ World Bank (WB), các ngành xây dựng, nhóm ngành sản xuất công nghiệp và bán lẻ hàng hóa (nhu cầu tiêu dùng tạm thời gián đoạn do đại dịch) đã hồi phục hoặc tiệm cận mức trước dịch, trong khi ngành tiêu dùng dịch vụ vẫn chưa có sự hồi phục đáng kể.

Điều này dẫn đến hiện tượng lạm phát tăng ở nhiều quốc gia. Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp tục trong ít nhất vài tháng tới do sự tăng giá phi mã của một số mặt hàng đầu vào phục vụ cho sản xuất tiêu biểu phải kể đến dầu thô với mức tăng 40% so với cùng kỳ. Trên cơ sở đó, VCBS đưa ra nhận định xu hướng tăng giá hàng hóa sẽ chiếm thế chủ đạo trong năm 2021.

Trong giai đoạn này, chính sách tiền tệ nới lỏng vẫn là thông điệp xuyên suốt của các NHTW, điểm thay đổi đáng kể nhất là triển vọng kinh tế phục hồi tốt hơn kỳ vọng. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) chia sẻ quan điểm: trong giai đoạn này, các yếu tố lạm phát không có tính chất lâu bền, mang tính chất đặc thù và riêng biệt; chính vì vậy các mục tiêu về lạm phát trong trung và dài hạn vẫn được đảm bảo. Cụ thể, hồi tháng 8/2020, FED đã nhất trí về một cách tiếp cận mới đối với chính sách tiền tệ nhằm đạt mục tiêu lạm phát trung bình 2%. Trong khi đó, ECB cũng theo đuổi mục tiêu lạm phát trung bình 2% trong trung và dài hạn. Như vậy có thể hình dung sau khi lạm phát rơi mạnh 2020 sẽ có giai đoạn lạm phát tăng cao trên ngưỡng mục tiêu vào giai đoạn phục hồi sau dịch. Ở thời điểm này, các NHTW này chưa cho thấy tín hiệu định hướng thay đổi chính sách tiền tệ bắt nguồn từ lo ngại xung quanh lạm phát. Theo đó, VCBS cho rằng vẫn còn là quá sớm để lo ngại về khả năng xảy ra một “siêu chu kỳ hàng hóa” tạo áp lực lên lạm phát trong trung và dài hạn.

Trong diễn biến mới nhất từ FED, dù có thay đổi sớm hơn lộ tình nâng lãi suất, như thời điểm gần nhất sẽ là năm 2023. Như vậy vẫn còn là quá sớm để xác định những thay đổi căn bản tới thị trường tài chính cũng như sự dịch chuyển của dòng vốn. Theo đó, những ảnh hưởng giai đoạn này chủ yếu mang tính chất kỳ vọng ngắn hạn và có thể sẽ không kéo dài lâu.

VCBS nhận định chính sách tiền tệ nới lỏng phi truyền thống đã được áp dụng khó có thể đảo ngược khi việc thu hẹp bảng cân đối kế toán của các NHTW gặp nhiều khó khăn. Minh chứng rõ nét nhất được quan sát ở thời điểm Quý 3.2019, khi Fed đã phải giảm lãi suất trở lại vào tháng 9/2019 (thời điểm chưa ghi nhận Covid-19). ECB cũng nhanh chóng có động thái tượng tự cắt giảm lãi suất tiền gửi từ -0,4% xuống mức thấp kỷ lục mới -0,5%, đồng thời khởi động lại chương trình mua trái phiếu. Và ở thời điểm này, các nỗ lực đảo ngược chính sách tiền tệ sẽ còn khó khăn hơn và khó có thể diễn ra sớm khi mức hồi phục về lao động đặc biệt tại các quốc gia như Mỹ hay châu Âu vẫn còn kém xa so với trước đại dịch. Tóm lại các NHTW tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng ít nhất cho tới năm 2022, và chưa có các lo ngại về lạm phát trong trung hạn.

Trường hợp các NHTW bắt đầu trung hòa dần chính sách nới lỏng tiền tệ thì đây cũng được xem là tín hiệu tích cực khi nền kinh tế thế giới dần hồi phục, giảm thiểu nguy cơ về khả năng hạ cánh cứng và xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Tác động đến nền kinh tế Việt Nam?

Vốn là một nền kinh tế có độ mở cao, chính vì vậy trong dài hạn mục tiêu hàng đầu của Việt Nam vẫn là đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, tạo sức hấp dẫn đối với dòng vốn đầu tư quốc tế nhằm sử dụng nguồn lực đầu tư, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao thu nhập bình quân đầu người và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Trong nhiều năm qua, nhiệm vụ này đã được Việt Nam thực hiện thành công. Còn ở thời điểm hiện tại, đặt trong trường hợp Việt Nam tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh, duy trì tốt các chỉ báo kinh tế vĩ mô thì dòng vốn đầu tư hoàn toàn có thể chảy vào Việt Nam dựa trên các tiêu chí đánh giá về mức rủi ro quốc gia và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế

Theo đánh giá của VCBS, về mặt dài hạn, trong trường hợp các chính sách tiền tệ của các NHTW dần chấm dứt xu hướng nới lỏng thì Việt Nam vẫn có những điều kiện và nguồn lực để có thể đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó, xu hướng chuyển dịch đầu tư sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam và các quốc gia khác bắt nguồn từ các thay đổi mang tính địa chính trị giữa các quốc gia. Cùng lúc, các hiệp định thương mại tự do FTA cũng là điểm cộng trong thu hút dòng vốn đầu tư.

Còn trong ngắn hạn, nếu so sánh với các NHTW khác trên thế giới, có thể thấy NHNN Việt Nam chỉ thực hiện hạ lãi suất điều hành và chưa có kế hoạch mua lại tài sản như trái phiếu. Đây được xem là điểm cộng về độ linh hoạt trong chính sách tiền tệ của nước ta. Một ưu điểm khác là các chính sách điều hành linh hoạt, phù hợp với từng thời điểm đã cho thấy sự hiệu quả góp phần ổn định các chỉ báo kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lạm phát hay lãi suất trong các năm gần đây.

Tuy nhiên trong năm 2021 này, thử thách lớn về điều hành đối với NHNN chủ yếu đến từ 3 nhân tố: thứ nhất, áp lực từ việc độ mở nền kinh tế lớn, kim ngạch xuất nhập khẩu có xu hướng tăng tương đối so với quy mô nền kinh tế trong bối cảnh giá cả hàng hóa nguyên vật liệu tăng cao tạo áp lực tiềm ẩn với mục tiêu ưu tiên hàng đầu về kiểm soát lạm phát; thứ hai, áp lực lớn trong việc cân bằng hài hòa lợi ích của người gửi tiền và người đi vay; thứ ba, nhu cầu hỗ trợ dòng vốn vào nền kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch tuy nhiên hạn chế tối đa dòng vốn chảy vào các kênh tài sản hay các hoạt động rủi ro như đầu cơ, kinh doanh bất động sản. “Về cơ bản các can thiệp chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát của NHTW sẽ không có nhiều hiệu quả khi nguyên nhân đến từ việc mặt bằng giá cả hàng hóa tăng. Theo quan sát của chúng tôi, nhiều NHTW thế giới đã có tín hiệu chấp nhận kịch bản lạm phát tăng trong giai đoạn phục hồi và không quá cứng nhắc với con số lạm phát mục tiêu trung hạn” – các chuyên gia VCBS nhận định.

Việt Anh