Từ nước xuất khẩu, Việt Nam chuyển sang nhập khẩu dầu thô, than đá với số lượng lớn

Sau một thời gian dài chuyên xuất khẩu than đá, dầu thô và quặng khoáng sản với khối lượng lớn, giờ đây “gió đã đổi chiều”, Việt Nam lại trở thành quốc gia nhập khẩu các mặt hàng này.

Cụ thể số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy 7 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã nhập khẩu 1,8 triệu tấn dầu thô với kim ngạch đạt 890 triệu USD, tăng hơn 544% về lượng và 670% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.

Với than đá, trong 7 tháng đầu năm nay, cả nước nhập về hơn 11,9 triệu tấn than đá với kim ngạch gần 1,4 tỉ USD, tăng 49% về lượng và 71,6% về kim ngạch. Việt Nam chủ yếu nhập khẩu than từ các thị trường Nga, Trung Quốc, Indonesia; trong đó Indonesia là nước cung cấp than nhiều nhất cho Việt Nam với lượng than xuất vào nước ta chiếm trên 6,38 triệu tấn, kim ngạch 450 triệu USD. Than nhập khẩu vào Việt Nam có mức giá bình quân 2,6 triệu đồng/tấn; trong đó than nhập từ Indonesia có giá rẻ nhất là 1,6 triệu đồng/tấn; than nhập từ Trung Quốc có giá cao nhất so với các thị trường khác với 8,2 triệu đồng/tấn (cao hơn 6,6 lần so với nhập từ thị trường Indonesia).

Ngoài các đơn vị được nhập khẩu than như Tập đoàn Than – khoáng sản, Tập đoàn Điện lực.., hiện nay Chính phủ cũng đã cấp phép cho một số doanh nghiệp FDI được nhập khẩu than riêng phục vụ vận hành các nhà máy phát điện của mình; trong đó có Formosa, các khu chế xuất, các nhà máy nhiệt điện đầu tư theo hình thức BOT tại vùng Duyên hải miền Trung và ĐBSCL. Do đó có thể lý giải việc nhập khẩu than ồ ạt từ nước ngoài chủ yếu là các loại than phục vụ cho hoạt động của nhà máy nhiệt điện hoặc nhà máy phát điện riêng của doanh nghiệp, tập đoàn FDI đang hoạt động tại Việt Nam.

Ngoài 2 mặt hàng than và dầu thô, Việt Nam còn gia tăng nhập khẩu các loại quặng và khoáng sản. Tính đến hết tháng 7, cả nước nhập hơn 7,9 triệu tấn quặng, tăng 90% so với cùng kỳ, kim ngạch hơn 662 triệu USD, giá quặng tăng 91% so với năm trước.

Song song với nhập khẩu, Việt Nam cũng đồng thời xuất khẩu các mặt hàng tương tự; trong đó nước ta xuất được 2,1 triệu tấn quặng và khoáng sản, đạt kim ngạch 109 triệu USD. Giá bình quân khoảng 1,2 triệu đồng/tấn, thấp hơn 700.000 đồng/tấn so với giá nhập vào. Đối với mặt hàng than đá, 7 tháng qua nước ta xuất khẩu được 1,4 triệu tấn, kim ngạch 190 triệu USD, giá bình quân 3,1 triệu đồng/tấn; mặc dù giá than xuất khẩu cao hơn 500.000 đồng/ tấn so với giá than nhập khẩu bình quân song vẫn thấp hơn 50% so với giá than nhập về từ Trung Quốc. Còn với dầu thô, 7 tháng qua Việt Nam xuất khẩu 2,2 triệu tấn dầu thô, kim ngạch đạt 1,2 tỷ USD, giá xuất bình quân 12,4 triệu đồng/tấn, cao hơn gần 1 triệu đồng/tấn so với giá dầu thô nhập về.

Thông qua các con số trên cũng đã phần nào phản ánh rõ nét rằng hàng hóa của Trung Quốc bán sang Việt Nam đang ở mức cao ngất ngưởng so với các thị trường khác và cao hơn nhiều so với giá mà Việt Nam bán đi.

Theo : Victor Thai