MWG và cách tạo lợi nhuận từ “cánh tay trái” treasury để bù đắp cho những tổn thất trong hoạt động kinh doanh chính mùa dịch

Dịch bệnh diễn biến phức tạp và kéo dài khiến hoạt động kinh doanh chính của nhiều doanh nghiệp sụt giảm, nhất là trong giai đoạn giãn cách. Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh sử dụng nghiệp vụ treasury và gặt hái thành công, qua đó bù đắp cho những tổn thất trong hoạt động kinh doanh chính, mang lại lợi nhuận cho các cổ đông. Nổi bật có thể kể đến Công ty CP Đầu tư Thế giới Di động (MWG)

Mảng điện máy, thiết bị di động của MWG bị ảnh hưởng nặng trong quý 3 do đại dịch

Báo cáo cho thấy trong 9 tháng đầu năm 2021, lợi nhuận từ hoạt động tài chính của MWG đạt 394 tỷ đồng, tăng khoảng 290 tỷ đồng, gấp gần 4 lần so với cùng kỳ năm ngoái (104 tỷ đồng). Lợi nhuận thuần của MWG cũng tăng thêm 334 tỷ đồng, đạt 4.418 tỷ đồng. Điều này cũng đồng nghĩa với mức tăng lợi nhuận của MWG chủ yếu đến từ lợi nhuận tài chính; phần nào khẳng định vai trò quan trọng của nghiệp vụ treasury đối với MWG trong năm 2021 này – một năm mà dịch bệnh đã tác động nặng nề đến mảng kinh doanh điện máy và thiết bị di động của Công ty. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao MWG có chi phí vốn rất thấp nhưng vẫn có thể kiếm lời rất tốt từ đầu tư tài chính?

Theo ông Nguyễn Quang Thuân – Tổng Giám đốc FiinGroup, MWG có chi phí vốn vay bình quân (Cost of Financing – CoF) chỉ ở mức 3,7%/ năm trong tổng số nợ vay ngắn và dài hạn là 18.060 tỷ đồng vào cuối quý 3/2021. Trái phiếu của MWG huy động có thể có mức chi phí vốn cao hơn đáng kể, ví dụ trái phiếu phát hành cho Manulife ở mức 6,55% – chưa tính phí bảo lãnh, tuy nhiên trong tổng cơ cấu vốn vay (ngắn và dài hạn) thì dư nợ huy động trái phiếu chỉ 1.130 tỷ đồng, tức chiếm khoảng 6,3% tổng nợ vay. Chính vì vậy trong tổng số 12.900 tỷ đồng đầu tư tài chính (bao gồm đầu tư tài chính ngắn hạn, đầu tư tài chính dài hạn – không tính đầu tư vào công ty liên kết để ăn cổ tức; và phải thu từ cho vay) thì phần lớn nguồn vốn dùng cho hoạt động đầu tư của MWG là dùng từ nguồn vốn vay ngắn hạn vốn có chi phí vốn thấp hơn nhiều.

Ngoài ra tỷ suất lợi nhuận đầu tư bình quân của MWG ở mức 7,2%, được xem là mức tỷ suất ổn định trong 4 quý vừa qua. Nếu so với mức CoF bình quân 3,7% thì mức chênh lệch khá lớn là 3,5%. Đây là mức lợi nhuận rất cao và không kém gì biên lợi nhuận tín dụng của các ngân hàng thương mại và cao hơn cả lợi nhuận kinh doanh trái phiếu của các công ty chứng khoán. Điều quan trọng là mức biên lợi nhuận này giúp đem lại khoản lợi nhuận tài chính khá lớn, 243 tỷ đồng trong quý 3/2021 và chiếm 25,1% lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh (đã bao gồm khoản lợi nhuận tài chính này).

Lý giải sâu hơn về vấn đề này, Tổng Giám đốc FiinGroup cho biết MWG có thể có mức CoF thấp nhưng lợi thế giúp tạo lợi nhuận từ hoạt động này cho MWG nằm ở lưu lượng hàng tồn kho rất lớn, luôn ở mức 20.000-22.000 tỷ đồng trong năm qua. Hàng tồn kho này thực tế đều có giá trị thanh khoản cao, mặc dù vòng quay ở mức 2-3 tháng/năm. Chưa kể cuối quý 3/2021, hệ số đòn bẩy tài chính (nợ vay/vốn chủ) của MWG chỉ ở mức 0,96x – mức rất thấp so với bình quân ngành bán lẻ. Hệ số bao phủ nợ vay (nợ vay ròng/EBITDA) cũng ở mức rất an toàn 3,5x (tức mất bình quân 3,5 năm để trả hết gốc nợ vay). Hệ số khả năng chi trả lãi vay (EBITDA/chi phí lãi vay) ở mức an toàn 6,8 lần (tức năng lực lợi nhuận bằng tiền tạo ra gấp nhiều lần áp lực trang trải chi phí lãi vay), cao hơn nhiều so với trung bình ngành bán lẻ. Chính từ những lợi thế này mà bất cứ ngân hàng nào cũng muốn tiếp cận một khách hàng như MWG để cấp hạn mức tín dụng cho vay vốn lưu động.

Ngoài ra theo mô hình xếp hạng tín nhiệm của FiinRatings, MWG có mức xếp hạng sơ bộ ở khu vực rất cao (hoặc rủi ro tín dụng rất thấp) từ A+ đến AA theo thang điểm xếp hạng nội địa của Việt Nam. Đây là mức thấp hơn từ 2 đến 3 bậc so với mức xếp hạng cao nhất AAA (tương đương mức của trái phiếu Chính phủ Việt Nam và hiện có lợi tức chỉ khoảng 1,9% cho kỳ hạn 10 năm).

Về nghiệp vụ treasury của MWG, ông Nguyễn Quang Thuân nhận xét MWG đã nắm bắt cơ hội tốt nhằm tối đa hoá giá trị cho cổ đông trong bối cảnh dịch bệnh. Có thể thấy MWG chủ yếu đầu tư vào trái phiếu kỳ hạn 3 – 5 năm của các tổ chức tín dụng với lãi suất 6-9% và khoản cho vay công ty chứng khoán HSC; do đó rủi ro được đánh giá là thấp. Tuy nhiên độ rủi ro vẫn còn tuỳ thuộc trái phiếu của ngân hàng nào. Trong trường hợp MWG đầu tư vào trái phiếu của các ngân hàng nhỏ thì rủi ro tương đối lớn.  Riêng HSC thì thuộc top 3 các CTCK mà mô hình chấm điểm độ an toàn tín dụng của FiinRatings đã phát triển cho ngành này tại Việt Nam, do ít phụ thuộc hơn vào nguồn thu tự doanh và chất lượng nguồn thu môi giới vượt trội, đặc biệt nhờ thị phần lớn từ nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. “Theo thống kê của FiinGroup, hiện có khoảng 110/1.650 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tham gia tích cực vào hoạt động đầu tư tài chính như: đầu tư vào chứng chỉ tiền gửi, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, cho vay tín dụng, phái sinh hàng hoá…Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có mức lợi nhuận hấp dẫn như MWG” – Tổng Giám đốc FiinGroup cho hay

Như Anh