Gỡ nút thắt trong phát triển công nghiệp hỗ trợ
Cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) tại Việt Nam cũng đã gặt hái được những kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Dẫu vậy vẫn còn rất nhiều bất cập trong công cuộc phát triển ngành công nghiệp trọng yếu này, nhất là các ngành công nghiệp hạ nguồn vốn giữ vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển CNHT cũng như thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự án quy mô lớn tại Việt Nam.
Phát triển cả về lượng lẫn chất
Tại Báo cáo Chính phủ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội về thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số Nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII lĩnh vực Công Thương có nhấn mạnh: CNHT là ngành công nghiệp nền tảng, đóng vai trò rất quan trọng quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất và kỹ năng lao động, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cho sản phẩm và chất lượng nền kinh tế Việt Nam.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của CNHT, thời gian qua Bộ Công Thương đã có những tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo quyết liệt nhằm nâng cao vai trò, vị thế của ngành công nghiệp trọng yếu này theo tinh thần của Nghị quyết số số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngoài ra hướng đến mục tiêu phát triển các chương trình CNHT trong nước, giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, Bộ Công Thương cũng đang triển khai thành lập 3 Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp tại 3 miền Bắc, Trung, Nam với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò hỗ trợ đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp chế biến, chế tạo trên khắp cả nước. Thông qua hoạt động của 3 Trung tâm này sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và CNHT đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ sản xuất thử nghiệm, nâng cao năng suất chất lượng, tạo giá trị gia tăng cũng như tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thêm một thuận lợi nữa là những năm gần các doanh nghiệp CNHT có sự phát triển mạnh cả về lượng lẫn chất. Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành CNHT chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hơn 600.000 lao động, chiếm 8% lao động toàn ngành chế biến, chế tạo; doanh thu thuần sản xuất, kinh doanh đạt hơn 900.000 tỷ đồng, đóng góp khoảng 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo…Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam có năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa – cao su kỹ thuật; săm lốp các loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và được xuất khẩu tới các quốc gia trên thế giới.
Khắc phục các yếu kém, tạo lực đẩy từ công nghiệp hạ nguồn
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, báo cáo của Chính phủ cũng đồng thời chỉ rõ những yếu kém, bất cập trong phát triển ngành CNHT. Việt Nam hiện có 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, tuy nhiên trong số này chỉ khoảng 300 doanh nghiệp tham gia mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia, chiếm khoảng 17%. Quy mô và năng lực của các doanh nghiệp CNHT còn nhiều hạn chế: số lượng ít, năng lực sản xuất còn rất thấp, thiếu nguồn lực và công nghệ để nâng cao năng suất, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thêm vào đó khả năng tài chính của doanh nghiệp yếu, vốn tự có thấp; trình độ công nghệ còn nhiều hạn chế, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, dẫn đến giá thành cao, không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và tương thích kỹ thuật.
Để khắc phục những bất cập trên, đưa ngành CNHT phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, điều cần thiết lúc này là Chính phủ cần chủ động rà soát, xây dựng các cơ chế, chính sách mới phù hợp với các cam kết hội nhập để hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghiệp phát triển. Đồng thời tập trung phát triển thị trường cho CNHT, trong đó có phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn như: công nghiệp năng lượng, các ngành công nghiệp về cơ khí chính xác, một số ngành cơ khí chế tạo…
Theo đó để phát triển công nghiệp hạ nguồn, trước tiên Chính phủ cần có các chính sách phù hợp nhằm bảo vệ thị trường nội địa, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh để thúc đẩy phát triển sản xuất các sản phẩm công nghiệp trong nước. Xây dựng chính sách về thuế nhập khẩu đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu linh hoạt, phù hợp để giúp các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh cắt giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh so với hàng hoá nhập khẩu, hướng đến các thị trường xuất khẩu. Đồng thời có chính sách, giải pháp quyết liệt và nhất quán tập trung hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm một số doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp hạ nguồn trọng điểm (ô tô, điện – điện tử, dệt may, da giày) trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp CNHT trong nước phát triển.
Minh Anh