Năm 2022 và sự sụp đổ của những công thức đầu tư kinh điển

Hàng loạt những biến động trong năm 2022 như: thiên tai, dịch bệnh, lạm phát và lãi suất tăng cao…đã trở thành nguyên nhân thất bại của nhiều công thức đầu tư vốn được xem là kinh điển từ trước đến nay.

Bên trong sàn chứng khoán New York ngày 13/9/2022. Ảnh: Reuters

Trong gần một năm kể từ khi thị trường chứng khoán Mỹ đạt đỉnh vào ngày 3/1, các nhà đầu tư đã thử dò đáy và nghiên cứu, tìm kiếm xu hướng sẽ hình thành lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên nỗi buồn của nền kinh tế toàn cầu trong năm nay lại chính là sự sụt giảm mạnh của các thị trường chứng khoán. Cụ thể chỉ số chứng khoán toàn cầu của MSCI đã giảm 18%, nhiều tài sản đầu cơ khác còn giảm mạnh hơn. Giá trị thị trường tiền kỹ thuật số giảm từ mức 3.000 tỷ USD năm 2021 xuống còn 840 tỷ USD.

Các tài sản được xem là an toàn như vàng, bất động sản… cũng đồng cảnh ngộ. Dữ liệu của Bloomberg cho thấy chỉ số trái phiếu của châu Âu và thị trường mới nổi giảm 15%, trong khi của Mỹ giảm 11%,

Năm nay cũng đánh dấu sự thất bại của công thức đầu tư kinh điển 60/40 (60% cổ phiếu, 40% trái phiếu) vốn trước đây từng giúp nhiều nhà đầu tư vừa hạn chế rủi ro vừa đạt lợi nhuận cao. Thông thường công thức đầu tư ít rủi ro sẽ là phân bổ nhiều hơn cho trái phiếu và ít hơn cho cổ phiếu. Tuy nhiên nhà quản lý tài sản Alex Funk của Schroder cho rằng công thức này không phải lúc nào cũng đúng do tổn thất đối với trái phiếu năm nay quá lớn.

Chung quy lại, việc các thị trường lao dốc trong năm nay cho thấy hình thái kinh tế vĩ mô tồn tại hàng chục năm nay đã sụp đổ. Lạm phát tăng cao và kéo dài đã chấm dứt một thập niên lãi suất cơ bản gần như bằng không, hệ quả là các quy tắc đầu tư đang được viết lại. Trong đó quy tắc bảo vệ danh mục đầu tư khỏi lạm phát vốn ít được chú ý trước đây giờ lại trở thành mối quan tâm hàng đầu. Trong khi đó, lợi suất trái phiếu chính phủ tăng khiến các tài sản rủi ro ít được ưa chuộng hơn.

Trước năm 2022, do lợi suất trái phiếu chính phủ cho lãi thấp ngày càng thấp nên nhà đầu tư đành đổ tiền vào cổ phiếu, tạo động lực thúc đẩy các thị trường chứng khoán trên thế giới tăng mạnh từ mức thấp nhất vào năm 2009 đến mức cao nhất vào cuối năm 2021, S&P 500 đã tăng 600%. Ngoài ra, tâm lý “tina” (there is no alternative – không có sự thay thế nào) còn thúc đẩy nhiều nhà đầu tư mua các tài sản khó hiểu hoặc kém thanh khoản hơn, với hy vọng kiếm được lợi nhuận kha khá. Các quỹ đầu tư tư nhân đã là những nhà đầu tư lớn vào các công ty chưa niêm yết kể từ khi bùng nổ hoạt động mua lại vào những năm 1980.

Các khoản vay giá rẻ, có sẵn sau cuộc khủng hoảng tài chính đã khơi mào cho sự ra đời và phát triển của ngành công nghiệp mua bán và sáp nhập (M&A). Chỉ trong thời gian ngắn, các thị trường tư nhân trên khắp thế giới đã tăng gấp bốn lần về quy mô, với trị giá lên tới hơn 10.000 tỷ USD. Vốn cổ phần tư nhân và bất động sản chiếm gần 20% danh mục đầu tư của các quỹ hưu trí công của Mỹ.

Tuy nhiên đến năm 2022, lạm phát và lãi suất tăng cao khiến nhiều công thức đầu tư vốn được xem là kinh điển từ trước đến nay phải chịu cảnh thất bại ê chề. Lạm phát làm xói mòn giá trị của cả khoản thanh toán lãi trái phiếu lẫn tiền gốc; chưa kể lãi suất tăng làm giảm giá trái phiếu

Thông thường nếu lạm phát và lãi suất tăng lên do tăng trưởng kinh tế giảm sút, cổ phiếu cũng có thể tăng lên do kỳ vọng thu nhập cao hơn. Tuy nhiên tình hình năm nay lại khác, giá cả và lãi suất đang tăng lên do cú sốc hàng hóa, sự sụp đổ của chuỗi cung ứng và tình trạng thiếu lao động đe dọa đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến công thức đầu tư 60/40 sụp đổ. Năm nay, lợi suất trái phiếu tăng lên khiến các cổ phiếu mất giá và từ đó mất đi sức hút đối với nhà đầu tư.

Bước sang năm 2023, dự báo những thách thức có thể lắng xuống hoặc có thể có những thay đổi mãi mãi. Sau khi đạt đỉnh vào năm tới, lãi suất được kỳ vọng sẽ giảm nhưng khả năng giảm về gần zero dường như rất mong manh bởi rất khó để có thể kiềm chế lạm phát. Thị trường lao động thắt chặt ở nhiều nước sẽ đẩy tiền lương lên cao; chưa kể nhu cầu lớn đối với chi tiêu của chính phủ cũng có thể giúp tăng lãi suất và thúc đẩy lạm phát. Kết hợp các yếu tố này lại với nhau, chúng sẽ định hình lại danh mục của các nhà đầu tư và thay đổi mức lợi nhuận mà họ kỳ vọng.

Theo nhà quản lý tài sản Simona Paravani của BlackRock, ngay cả khi lạm phát sớm ổn định xuống mức một con số nhỏ thì tỷ lệ này vẫn sẽ cao hơn so với thời điểm từ sau cuộc khủng hoảng tài chính, kéo theo nhu cầu xây dựng danh mục đầu tư chống lạm phát trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Cùng với hàng hóa, các tài sản khác cũng có thể cung cấp một phương tiện tốt để chống lại lạm phát. CEO quỹ hưu trí Omers (Canada) – ông Blake Hutcheson cho biết quỹ này đã dành nhiều năm để rót vốn vào cơ sở hạ tầng, bất động sản và doanh thu từ các khoản đầu tư này có xu hướng tăng theo lạm phát. Việc chấm dứt thời kỳ lãi suất cực thấp đưa đến những hậu quả lớn hơn. Lãi suất phi rủi ro (lãi suất lý thuyết của một khoản đầu tư không có rủi ro) cao hơn cũng làm thay đổi loại hình công ty được các nhà đầu tư đánh giá cao.

Nếu những năm trước, cổ phiếu tăng trưởng (lợi nhuận ngoạn mục trong tương lai) vượt lên dẫn trước các cổ phiếu giá trị (cho thu nhập ổn định nhưng ít cơ hội tăng trưởng hơn) thì ở thời điểm hiện tại, lãi suất tăng khiến cổ phiếu tăng trưởng trở nên kém hấp dẫn hơn. Đơn cử khi lãi suất là 1%, gửi 91 USD vào ngân hàng thì sau 10 năm sẽ có giá trị 100 USD. Nói cách khác, 100 USD sau 10 năm chỉ đáng giá 91 USD ngày hôm nay. Còn khi lãi suất là 5%, chỉ cần gửi 61 USD thì 10 năm sau sẽ có giá trị 100 USD. Nói cách khác 100 USD sau 10 năm chỉ đáng giá 61 USD ngày hôm nay. Điều đó làm cho sự tăng trưởng trong tương lai trở nên kém giá trị hơn nhiều.

Logic tương tự làm thay đổi sức hút các loại hình startup; lãi suất cao hơn làm giảm giá trị của lợi nhuận trong tương lai so với lợi nhuận hiện tại. Một nhà đầu tư mạo hiểm có kinh nghiệm cho biết dòng tiền đang nghiêng về các startup tạo ra giá trị, thay vì loại hình khởi nghiệp đốt tiền để mở rộng nhanh như trước.

Nói chung với nhiều nhà đầu tư, khó khăn vẫn còn ở phía trước; trong đó những người sắp nghỉ hưu có thể chịu tác động nặng nề nhất bởi họ có ít thời gian hơn để bù đắp những khoản lỗ gần đây. Những người ở độ tuổi 30 – 40 thì khá hơn một chút; hầu hết tiết kiệm được ít vào đầu những năm 2010, rồi sau đó tích lũy được kha khá vào cuối thập kỷ nhưng lại chịu lỗ nặng trong năm nay.

Đối tượng hưởng lợi lớn nhất chính là nhóm nhà đầu tư trẻ tuổi nhất. Họ chỉ mới bắt đầu tiết kiệm gần đây nên không tích lũy đủ lớn để bị ảnh hưởng nhiều bởi sự sụp đổ của thị trường năm nay. Chưa kể phần lớn thu nhập của họ vẫn đang ở tương lai.

Mạnh An