Tư duy mới trước hạn, mặn ‘kỷ lục’ ở đồng bằng sông Cửu Long
Hạn, mặn đang diễn ra gay gắt khiến một diện tích lớn vùng lúa, rau màu, thủy sản của 7 tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và các địa phương lân cận bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều hộ dân thiếu nước sinh hoạt. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam nhận định đến ngày 16/2 nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa hơn đỉnh điểm trận hạn mặn lịch sử năm 2016. Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn năm nay ở ĐBSCL đã được dự báo từ giữa năm 2019.
Nguyên nhân không chỉ do do thời tiết cực đoan El Nino, mưa ít, đầu nguồn sông Mekong thiếu nước trầm trọng. Cùng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, chính con người đã góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng hạn mặn mà nguyên nhân chính đến từ tác động tài nguyên nước xuyên biên giới, những bất cập nội, ngoại vùng ĐBSCL làm phá vỡ mối quan hệ sông-biển.
Các nghiên cứu khoa học đã chứng minh, lịch sử hình thành, kiến tạo, phát triển ĐBSCL hàng triệu năm qua là quá trình giao thoa sông-biển và nó vẫn đang tiếp tục diễn ra. Do vậy, con người phải nương theo quy luật để chủ động thích ứng, chứ không nên “liều mình chống chọi với tự nhiên”.
Những nguyên nhân nội tại và bên ngoài làm cho hạn mặn ngày càng khốc liệt hơn đã được chỉ rõ. Vấn đề là các giải pháp ứng phó trước mắt và lâu dài trước tình trạng hạn mặn diễn ra theo chu kỳ nhanh hơn, thậm chí quy luật lũ, hạn mặn ở vùng ĐBSCL cũng đang thay đổi thất thường, đòi hỏi chủ động thích ứng tốt hơn.
Hạn mặn khốc liệt là tình huống thiên tai, song con người có thể chủ động thích ứng, giảm nhẹ thiệt hại, thậm chí khai thác điều kiện sinh thái mặn- lợ. Tư duy đó đã được thể hiện trong Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về việc ĐBSCL chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, cần được hiện thực hóa trong chương trình, kế hoạch phát triển của địa phương, huy động sự tham gia của doanh nghiệp và người dân.
Đó cũng là cách đã tạo ra kiến thức bản địa của người dân đồng bằng bao đời nay. Các bậc tiền hiền khai phá vùng châu thổ Cửu Long đã chống chọi với điều kiện khắc nghiệt của vùng đất mới. Lịch sử hàng trăm năm qua cho thấy, người dân nơi đây đã biết chủ động thích ứng thuận thiên, hợp địa, tôn trọng quy luật tự nhiên theo điều kiện thực tế. Người dân ven biển dùng lu, khạp để trữ nước ngọt mùa mưa dùng cho mùa khô. Thực tế, trong một số tiểu vùng bị hạn mặn nghiêm trọng vẫn có nhiều nông dân “né hạn” nhờ chủ động lịch thời vụ, sử dụng giống ngắn ngày, có những rẫy màu chủ động nước tưới, tránh được thiệt hại. Đó cũng là cách mà người đồng bằng đã hiện thực hóa thành công triết lý “sống chung với lũ, vượt lên đỉnh lũ” tạo ra nhiều kỳ tích lúa gạo, thủy sản, trái cây vừa qua.
Tại ĐBSCL, nhờ chủ động cảnh báo sớm, nhiều trà lúa đông xuân đã được dịch chuyển lịch thời vụ sớm, nên né được hạn mặn. Các dự án điều tiết nước kịp đưa vào sử dụng đã giúp các địa phương trong vùng phòng chống hạn hán và xâm nhập mặn hiệu quả. Cống âu thuyền Ninh Quới nằm trên kênh Quản Lộ – Phụng Hiệp góp phần điều tiết mặn – ngọt cho 3 tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng và Hậu Giang, ngăn tác hại tình trạng xâm nhập mặn vùng lúa, hoa màu trong tiểu vùng. Tiểu dự án Măng Thít ở tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, dự án Bắc Bến Tre, trạm bơm Xuân Hòa ở tỉnh Tiền Giang cũng đã kịp hoàn thành vào cuối năm 2019 bước đầu ứng phó hạn mặn.
Tuy nhiên, lâu nay, ta chỉ lo dùng nước ngọt trồng lúa, làm màu, lập vườn trồng cây, đào ao nuôi cá, quanh quẩn với sinh kế trong nội địa mà ít nhìn ra biển hoặc nghĩ hệ sinh thái nước mặn- nước ngọt luôn đối chọi nhau, nên chỉ biết làm đê ngăn mặn, giữ ngọt. Nhìn nước ngọt từ hệ thống sông Cửu Long đổ ra Biển Đông, biển Tây là “phí của trời cho”. Nhưng nước sông ra biển là hợp với tự nhiên, các dòng sông luôn tìm đường ra biển.
Nước ngọt chảy ra biển vừa tải dinh dưỡng phù sa, vừa làm cho biển mặn vừa phải, nhiệt độ vừa phải, tạo môi trường đa dạng sinh học cho nhiều loài thủy sản phát triển. Nhiều loài cá biển ở ĐBSCL sống được môi trường mặn, lợ, được vào, ra các cửa sông để sinh sản, phát triển.
Con số thống kê cho thấy, mặc dù bờ biển ĐBSCL chiếm chưa đến 1/4 bờ biển quốc gia nhưng sản lượng thủy sản đánh bắt hơn tất cả các vùng miền cả nước gộp lại. Có người so sánh bờ biển Australia dài gấp 40 lần ĐBSCL, nhưng do điều kiện tự nhiên phần lớn sa mạc liền biển, không có mối lương duyên sông – biển, nên sản lượng đánh bắt cá hàng năm của nước này chỉ ngang bằng một tỉnh của ĐBSCL.
Trong bối cảnh mới, thách thức mới trước những tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn mặn diễn ra bất thường, tư duy thích ứng thuận thiên cần đựợc nâng tầm lên bằng việc rà soát, cập nhật, điều chỉnh quy hoạch tổng thể vùng, từng tiểu vùng, ngành, nhất là quy hoạch sản xuất, hạ tầng thủy lợi, giao thông.
Sản xuất nông nghiệp cần áp dụng “3 chuyển dịch”: dịch chuyển lịch thời vụ để “né hạn, mặn”, sử dụng giống phù hợp điều kiện hạn, mặn và mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi hiệu quả kinh tế hơn cây lúa kèm theo là các giải pháp kỹ thuật, tín dụng, gắn với thị trường tiêu thụ nông sản để đảm bảo sự chuyển đổi thành công, tránh duy ý chí và hành chính hóa sản xuất.
Tiếp cận theo vùng, liên vùng, phối hợp liên ngành cùng hành động mới mong thích ứng trước các biến đổi tự nhiên và xã hội. Vừa phòng tránh dịch bệnh, vừa thích ứng, giảm tối thiểu thiệt hại hạn mặn gay gắt là một thách thức lớn. Những giải pháp công trình rất cần, nhưng các giải pháp phi công trình là không thể thể thiếu. Chính quyền và người dân không thể ngồi chờ, nhưng cũng không nên đổ tiền vội vã vào các công trình cục bộ. Bài toán cân bằng tổng thể và yêu cầu “chi phí – lợi ích” cần được đặt ra trước tiên cho bất kỳ một quyết định đầu tư công trình vội vã nào.
Có thể xem trận hạn mặn lịch sử năm nay là “liều thuốc thử” để củng cố tư duy thích ứng, dựa trên nền tảng khoa học và thực tiễn. Cần đầu tư nâng cao năng lực cảnh báo sớm thiên tai để chủ động ứng phó. Chủ động thích ứng, nhưng không thể lấy tình trạng hạn mặn khốc liệt của năm nay và năm 2016 để vẽ ra nhiều dự án rồi vội vã đổ tiền vào các công trình đầu tư hao tiền, tốn của mà hiệu quả thấp.
Những giải pháp công trình rất cần, nhưng các giải pháp phi công trình là không thể thiếu. Chính quyền và người dân không thể ngồi chờ, nhưng cũng không nên đổ tiền vội vã vào các công trình cục bộ. Bài toán cân bằng tổng thể, yêu cầu “chi phí – lợi ích” và nguyên tắc “không hối tiếc” cần được đặt ra trước tiên cho bất kỳ một quyết định đầu tư công trình vội vã nào.
Lâu nay, chúng ta xây dựng hệ thống thủy lợi chủ yếu để thoát lũ, nay nên chuyển sang trữ ngọt và dùng nước tiết kiệm. Về lâu dài, để thích nghi với biến đổi khí hậu, hạn, mặn, trước hết cần tiếp cận linh hoạt đối với quy hoạch sử dụng đất. Cần ưu tiên đầu tư vào vùng lõi lúa gạo của ĐBSCL ở Tứ giác Long Xuyên và lưu vực phù sa sông Tiền, sông Hậu. Phân biệt khu vực trồng lúa trọng yếu và không trọng yếu dựa trên sự phù hợp về sinh thái nông nghiệp, năng suất, tác động của biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, cần áp dụng phân vùng theo không gian, có chính sách hỗ trợ khác nhau ở vùng lõi, vành đai và các khu vực trồng lúa bình thường khác.
Bên cạnh nước ngọt, cần xem nước mặn, lợ cũng là tài nguyên phát triển kinh tế biển, ven biển. Tránh ngăn mặn bằng cách can thiệp thô bạo như đã làm. Chú trọng phát triển vùng duyên hải, vùng đặc quyền kinh tế, phát huy vị trí địa-kinh tế, chính trị của đồng bằng. Thích nghi với hạn, mặn, phát triển kinh tế ven biển, kinh tế biển xanh phù hợp chính là bước chuyển dịch căn bản để vùng đất phù sa vượt qua khỏi cái bóng của nông nghiệp lúa nước truyền thống từ ngàn đời, hướng đến mục tiêu an toàn, thịnh thượng trong tương lai.
Hạn mặn năm 2020 diễn ra gay gắt hơn năm 2016, nhưng đã được cảnh báo sớm. Thủ tướng Chính phủ cũng đã sớm có chỉ thị triển khai các giải pháp cấp bách phòng, chống hạn, mặn, thiệt hại có thể sẽ thấp hơn rất nhiều so năm 2016 nếu được các ngành, các cấp, doanh nghiệp và người dân chủ động, tích cực phòng tránh.
TS. Trần Hữu Hiệp
Chuyên gia kinh tế ĐBSCL