3 xu hướng lớn ảnh hưởng tới doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mới
Sáng ngày 10/12, tại Hà Nội, bên lề Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 đã diễn ra Tọa đàm giữa các Trưởng Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và doanh nghiệp với chủ đề: Triển khai Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển lấy doanh nghiệp làm trung tâm – Giải pháp và hành động. Đây là hoạt động đầu tiên thuộc chuỗi các sự kiện trong khuôn khổ Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31.

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Nguyễn Minh Vũ khẳng định, Tọa đàm là sự kiện rất quan trọng và có ý nghĩa trong bối cảnh Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ Ngoại giao xác định một trong các đối tượng phục vụ chính trong công tác là cộng đồng doanh nghiệp.
Trong khi đó, quan tâm chính của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam là nắm bắt được thời thế, đón chắc cơ hội để thích ứng tốt, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Sự kiện hết sức có ý nghĩa này là cơ hội để các Trưởng CQĐD Việt Nam ở nước ngoài chia sẻ những thông tin, đánh giá cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ trưởng Nguyễn Minh Vũ nhấn mạnh, Tọa đàm có 2 mục tiêu chính. Thứ nhất, kỳ vọng các Trưởng CQĐD Việt Nam ở nước ngoài chia sẻ xu hướng mới về đầu tư, đổi mới sáng tạo, giáo dục đào tạo, tham mưu cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội để gặt hái thành công.
Thứ hai, đây là diễn đàn để thông tin 2 chiều, chia sẻ thông tin để gia nhập thị trường, tìm kiếm đối tác đầu tư vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài.
Theo đại diện Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và doanh nghiệp là lực lượng, là trung tâm phục vụ phát triển. Trong hoạt động đối ngoại của các đơn vị Bộ Ngoại giao trong nước cũng như 94 CQĐD Việt Nam ở nước ngoài, đối tượng phục vụ chính là doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm cả doanh nghiệp lớn đến nhỏ.
Dưới sự điều hành của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ, các diễn giả tham gia thảo luận với chủ đề Triển khai Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy doanh nghiệp làm trung tâm – Giải pháp và hành động.
Tham dự phiên thảo luận, về phía Bộ Ngoại giao có Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Hà Kim Ngọc; Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai; Đại sứ Việt Nam tại Anh Nguyễn Hoàng Long; Đại sứ Việt Nam tại Australia Nguyễn Tất Thành; Đại sứ Việt Nam tại Singapore Mai Phước Dũng và Đại sứ Việt Nam tại Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) Nguyễn Mạnh Tuấn.
Về phía khách mời có ông Đoàn Duy Khương, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP); ông Hà Thế Dương, Phó Tổng Giám đốc Viettel Global; ông Vũ Thanh Sơn, Tổng Giám đốc Hapro – Tập đoàn BRG và ông Ôn Như Bình, Giám đốc Kinh doanh Chiến lược, VnPay.
Trong phiên thảo luận, các diễn giả trao đổi về các vấn đề như: Xu hướng lớn trên thế giới tác động đến hoạt động sản kinh doanh của các doanh nghiệp; Định hướng, gợi ý với doanh nghiệp để thâm nhập hiệu quả hơn vào thị trưởng quốc tế, nâng cao giá trị thương hiệu; Đề xuất các biện pháp, nhiệm vụ cụ thể để ngành ngoại giao hỗ trợ, phục vụ thiết thực nhu cầu và sự phát triển của các doanh nghiệp.
Xuất khẩu sang Mỹ là cơ hội lớn của doanh nghiệp Việt
Trong phát biểu đầu tiên tại phiên thảo luận, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Hà Kim Ngọc chia sẻ, Tọa đàm là cơ hội rất tốt để các CQĐD kết nối với doanh nghiệp. Đại sứ nhấn mạnh, ngoại giao phục vụ doanh nghiệp trở thành trọng tâm cốt lõi trong hoạt động của các CQĐD.
Theo Đại sứ, Mỹ là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu và thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tính đến tháng 11 năm nay, kim ngạch thương mại hai chiều đã vượt trên 90 tỷ USD và cuối năm sẽ cán mốc 100 tỷ. Trong đó, Việt Nam xuất siêu và con số xuất siêu ngày càng tăng. Do đó, xuất khẩu sang Mỹ là một cơ hội lớn của doanh nghiệp Việt Nam, thị trường này cũng rất mở cửa.
Tuy nhiên, Đại sứ cho biết, các hàng rào kỹ thuật tại thị trường Mỹ cũng được dựng lên ngày càng nhiều, do đó, trong cơ hội luôn tồn tại những thách thức mà doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú ý. Nhất là các mặt hàng tăng nhanh vào thị trường Mỹ sẽ dễ rơi vào “tầm ngắm”.
Bên cạnh đó, Đại sứ Hà Kim Ngọc nhấn mạnh, thị trường Mỹ rất tiềm năng và có nhu cầu thu hút đầu tư. Các sự kiện thu hút đầu tư được thúc đẩy thường xuyên, hiện nay có 200 dự án đầu tư của Việt Nam vào Mỹ, trong đó có các doanh nghiệp mạnh như Vinfast, An Phát.
Thời gian tới, theo Đại sứ Hà Kim Ngọc, hai lĩnh vực kinh tế mà Việt Nam có thể chú trọng hợp tác với Mỹ là kinh tế số và kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Chính quyền Tổng thống Joe Biden cũng rất chú trọng 2 lĩnh vực này.
4 điểm yếu của doanh nghiệp Việt tại Trung Quốc

Trả lời câu hỏi về cơ hội, xu hướng mới ở nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam của Thứ trưởng Nguyễn Minh Vũ, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai nêu bật một số cơ hội và thách thức với doanh nghiệp.
Theo Đại sứ, ít nhất trong vài thập niên tới, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn, quan trọng của Việt Nam. Trung Quốc có ưu thế về vị trí địa lý với Việt Nam, có thị trường nội địa rộng lớn cùng sức mạnh kinh tế lớn. Vì thế, thị trường này rất tiềm năng đối với doanh nghiệp Việt.
Tuy nhiên, để biến những cơ hội đó thành những hiệu quả đầu tư cụ thể, doanh nghiệp Việt Nam cần sớm tìm cách khắc phục một số điểm yếu còn tồn tại.
Thứ nhất, đó là phần giá trị của Việt Nam trong chuỗi cung ứng của Trung Quốc còn thấp.
Thứ hai, dù Trung Quốc là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, song sau 30 năm, sản phẩm của nước ta xuất khẩu sang thị trường này không có hệ thống phân phối riêng và phụ thuộc hoàn toàn vào các doanh nghiệp sở tại.
Thứ ba, hàng hóa Việt Nam xuất sang Trung Quốc vẫn dựa nhiều vào tiểu ngạch, trong khi Trung Quốc đang chuẩn bị thay đổi chính sách quản lý trong lĩnh vực này.
Cuối cùng, Đại sứ nói, đầu tư của Việt Nam vào Trung Quốc cũng còn khó khăn.
Nắm bắt xu hướng kinh tế xanh
Tiếp lời Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai, Đại sứ Việt Nam tại Anh Nguyễn Hoàng Long chia sẻ, sau khi Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU), Anh đẩy rất mạnh hợp tác ngoài EU, đáp ứng phần nào những “lỗ hổng”. Hiện nay, London thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều đối tác.
Với Việt Nam, cơ sở hợp tác vẫn là trên cơ sở FTA với EU (EVFTA). Năm nay, Anh hướng tới tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTPP), hướng sang thị trường châu Á-Thái Bình Dương.
Thêm nữa, Đại sứ Nguyễn Hoàng Long khẳng định, Anh xác định sau đại dịch Covid-19 là cơ hội để tập trung tăng cường hợp tác. Các lĩnh vực mà Anh chú trọng gồm cơ sở hạ tầng, kinh tế xanh bền vững, kinh tế số và khoa học kỹ thuật.
Theo Đại sứ, những dự án hợp tác liên quan tới kinh tế xanh sẽ được đẩy lên rất nhanh. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh và tập trung nắm bắt xu hướng này thì sẽ có được cơ hội hợp tác rất lớn với phía bạn.
Bên cạnh đó, London cũng đẩy rất mạnh kinh tế số. Nhiều ngành kinh tế, cơ quan của Anh bắt đầu chuyển sang làm việc ở nhà, tiết kiệm thời gian và hiệu quả công việc cao.
Để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển, Đại sứ Nguyễn Hoàng Long cho biết, Anh đang xây dựng một loạt các công cụ. Trong đó, Cơ quan đầu tư quốc tế Anh được tăng cường để hỗ trợ huy động vốn đầu tư; Cơ quan hỗ trợ xuất khẩu được nâng tầm để thúc đẩy xuất khẩu.
3 xu hướng lớn ảnh hưởng tới doanh nghiệp

Phó Chủ tịch VCCI Đoàn Duy Khương đánh giá cao những trao đổi của các Trưởng CQĐD tại tọa đàm, đồng thời nêu 3 xu hướng lớn trong phát triển kinh tế thế giới hiện đang ảnh hưởng tới các doanh nghiệp.
Đầu tiên, xu hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh trong nền kinh tế thế giới. Cụ thể, mặc dù nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ đang cạnh tranh gay gắt, song hai bên vẫn duy trì hợp tác. Đồng thời, đây cũng là hai thị trường lớn nhất của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp cần khéo léo tìm ra lĩnh vực để không mắc kẹt trong thế cạnh tranh của hai nền kinh tế này.
Thứ hai, đó là yếu tố địa chính trị trong kinh tế quốc tế, đặc biệt là tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Yếu tố này có tác động đặc biệt quan trọng tới vấn đề vận chuyển hàng hóa. Phó Chủ tịch VCCI đề cập dự án kênh đào Kra tại Thái Lan và cơ hội đến từ dự án này mà Việt Nam có thể tận dụng.
Thứ ba, đó là sự phát triển nền kinh tế số. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng nền tảng kỹ thuật số để tăng cường kết nối với khách hàng, đồng thời giảm thiểu chi phí kho bãi, áp dụng trí tuệ nhân tạo trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Huy Hoàng