Vaccine Covid – 19: Bệ phóng vào kỷ nguyên huy hoàng của “ông lớn” ngành dược Pfizer

Chính thức đi vào hoạt động năm 1849 bởi hai người Đức nhập cư vào Mỹ – Charles Pfizer và Charles Erhart, trải qua lịch sử hơn 170 năm phát triển, Pfizer đã vươn vai lớn mạnh, trở thành “gã khổng lồ” của  ngành dược phẩm toàn cầu.

Bà Wilhelmine Klotz Erhart, cùng con trai là Charles Erhart và cháu trai Charles Pfizer đang đứng chụp năm 1855. Ảnh: The Legend of Pfizer

Kỷ nguyên thống trị

Thời điểm khởi nghiệp, Charles Pfizer và Charles Erhart đã vay 2.500 USD từ cha của Pfizer để thành lập một công ty hóa chất tinh chế và tung ra thị trường sản phẩm đầu tiên là loại thuốc chống ký sinh trùng có mùi vị như kẹo bơ cứng, kết hợp chuyên môn của hai nhà sáng lập. Thành công này đã đặt nền tảng cho sự phát triển vượt bậc của Pfizer về sau này

Thời điểm nội chiến Mỹ bùng nổ năm 1862, nhu cầu thuốc giảm đau và sát trùng cho phe Liên minh tăng đột ngột đã tạo ra động lực phát triển cho ngành dược phẩm Mỹ nói chung – Pfizer nói riêng. Đến năm 1868, tỷ lệ thuận với sự đa dạng của các dòng sản phẩm, doanh thu của hãng cũng tăng gấp đôi so với thời kỳ đầu cuộc chiến.

Sau chiến tranh, Pfizer tiếp tục tập trung vào hóa chất công nghiệp cũng như thuốc, sản xuất axit citric cần thiết cho ngành công nghiệp nước giải khát mới nổi, tạo động lực cho các thương hiệu như Coca Cola và Dr Pepper vươn lên trong những năm 1880. Hoạt động này đã trở thành trụ cột của họ trong nhiều năm, giúp hãng liên tục phát triển. Bên cạnh đó, khi nguồn cung axit tartaric bị gián đoạn do nội chiến và thuế tăng, Pfizer tìm cách tự sản xuất để trở thành nhà cung cấp hóa chất hàng đầu tại Mỹ.

Sau khi Charles Pfizer và Charles Erhart qua đời, Emil Pfizer chính thức đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Pfizer cho đến những năm 1940. Dưới sự quản lý của ông, Pfizer đã thật sự tỏa sáng về mặt chuyên môn với các phương pháp sản xuất khoa học và hiệu quả. Năm 1919, hãng đi tiên phong trong việc lên men nấm mốc của axit xitric từ mật đường và phát triển một quy trình lên men trong bể sâu, chấm dứt hoàn toàn thời kỳ phụ thuộc vào nguồn cung trái cây họ cam quýt của châu Âu vốn đã bị gián đoạn bởi Thế chiến I. Các nguyên tắc của quy trình này về sau được áp dụng để sản xuất penicillin góp phần mang lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho Pfizer khi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt kêu gọi ngành công nghiệp dược phẩm hỗ trợ sản xuất penicillin cho chiến tranh vào năm 1941. Với việc đi tiên phong trong sản xuất hàng loạt penicillin, hai nhà khoa học Jasper Kane và John McKeen của Pfizer tự hào tuyên bố “Hầu hết penicillin được đưa vào bờ cùng với lực lượng Đồng minh vào ngày D-Day (ngày tàu chiến đồng minh tấn công vào bờ biển Pháp 6/6/1944) là do Pfizer sản xuất”.

Thuốc kháng sinh sau đó đánh dấu bước chuyển mình của Pfizer sang thời kỳ hiện đại. Năm 1950, Terramycin – sản phẩm độc quyền đầu tiên của Pfizer được bán trên thị trường và bước sang năm 1951, hãng bắt đầu quá trình quốc tế hóa lớn đầu tiên khi mở rộng sang 9 quốc gia. Pfizer cũng bắt đầu thử sức mình ở nhiều lĩnh vực nghiên cứu từ nông nghiệp cho đến lĩnh vực sức khỏe động vật, bổ sung dinh dưỡng….Thập niên 60 là thời điểm Pfizer kinh doanh đa dạng nhất trong lịch sử với đầy đủ các sản phẩm từ thuốc viên cho đến nước hoa, hóa dầu, các sản phẩm dành cho vật nuôi…

Trong suốt những năm 60 – 70, Công ty tiếp tục đưa ra thị trường nhiều loại thuốc mới gắn với đầu tư mở rộng cơ sở nghiên cứu, dành từ 5% đến 15% doanh thu cho các hoạt động R&D…Nỗ lực này cuối cùng cũng đã được đền đáp bằng một loạt sản phẩm “bom tấn” như: chất ức chế COX Feldene; Glucotrol dùng trong điều trị tiểu đường; chất chống tăng huyết áp Procardia…Nổi bật trong số này là thuốc statin Lipitor (được Warner-Lambert phê duyệt năm 1997 trước khi sáp nhập với Pfizer) đã trở thành loại thuốc kê đơn bán chạy nhất đến nay, mang về cho Pfizer 12 tỷ USD năm 2007, bằng một phần tư tổng doanh số của hãng.

Tương lai xán lạn chào đón

Cũng giống như hầu hết các công ty dược phẩm lớn khác, khi vươn lên trở thành nhà sản xuất thuốc nổi tiếng nhất trên thế, Pfizer cũng phải phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Năm 2009, hãng tuyên bố đóng cửa một số lượng lớn các cơ sở sản xuất và R&D trên toàn thế giới sau khi nhận án phạt hơn 2 tỷ USD vì các hoạt động tiếp thị thuốc. Đầu năm 2010, 40% doanh số bán hàng của Pfizer đến từ nhóm thuốc không được cấp bằng sáng chế. Hãng cũng thất bại trong hàng loạt cuộc thử nghiệm từ thuốc chống cholesterol torcetrapib cho đến thuốc chống thoái hóa khớp.

Tuy nhiên, những rào cản và sóng gió thương trường vẫn không làm lung lay mục tiêu thống lĩnh của Pfizer. Bước sang thiên niên kỷ mới, để gia tăng quy mô và thanh thế, hãng thực hiện một loạt vụ sáp nhập lớn, lần lượt “nuốt chửng” Warner-Lambert vào năm 2000, Pharmacia và Upjohn năm 2002, Wyeth năm 2009 và Medivation năm 2016. Năm 2015 – thời điểm mà sinh học bắt đầu tạo ra làn sóng thực sự trên thị trường, Pfizer mạnh tay chi tới 17 tỷ USD để mua lại công ty chuyên sản xuất thuốc tiêm và ống sinh học Hospira, tạo nền tảng cho kế hoạch tách mảng kinh doanh thuốc được bảo hộ bằng sáng chế khỏi danh mục đầu tư không có bằng sáng chế của Pfizer. Tiếp sau đó là thỏa thuận liên doanh với GSK mang về tổng doanh thu hàng năm là 12,7 tỷ USD; thỏa thuận hợp nhất mảng kinh doanh thuốc Upjohn với Mylan trị giá 12 tỷ USD

Bên cạnh các thương vụ thành công, Pfizer cũng 2 lần thất bại ê chề từ thương vụ mua lại AstraZeneca (AZ) của Anh và mua lại công ty Allergan của Ireland Pharma; dẫu vậy đến nay Pfizer vẫn là một trong những công ty dược phẩm lớn nhất thế giới với hơn 100.000 nhân viên, trong đó có đến 38.000 trình dược viên. Đặc biệt với sự kiện lớn trở thành một trong những công ty đầu tiên trên thế giới được phê duyệt vaccine Covid-19 – thông qua sự hợp tác với BioNTech, Pfizer sắp sửa bước vào một thời kỳ huy hoàng và đầy vinh quang. Hiện diện với tần suất cao trong hàng loạt lĩnh vực từ phân tử nhỏ đến sinh học, tế bào gốc và hàng tiêu dùng, Pfizer có lẽ sẽ kỷ niệm 200 năm thành lập bằng vị thế vững chắc như 170 năm qua.

Trung Anh