Uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng nâng cao trên trường quốc tế
Theo xếp hạng của Tạp chí Mỹ US News & World Report (US News), năm 2022 Việt Nam là quốc gia hùng mạnh thứ 30 thế giới với GDP ước tính là 363 tỷ USD, dân số vượt 98,2 triệu dân, GDP bình quân đầu người 11.553 USD. Thành công này cùng với sự cải thiện thứ hạng trên nhiều bảng xếp hạng quốc tế khác đã góp phần khẳng định uy tín và vai trò ngày càng nâng cao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bảng xếp hạng Những cường quốc hùng mạnh nhất thế giới của US News dựa trên điểm trung bình được tính từ 5 yếu tố liên quan đến quy mô kinh tế, quyền lực và và sức ảnh hưởng của một quốc gia trên sân khấu toàn cầu gồm: năng lực lãnh đạo; tầm ảnh hưởng kinh tế; sức mạnh chính trị; sức mạnh liên minh quốc tế; sức mạnh quân sự. Bảng xếp hạng này là một phần nghiên cứu “Những quốc gia tốt nhất thế giới” hằng năm, khảo sát và đánh giá 85 quốc gia dựa trên phản hồi từ 17.000 người tham gia.
Còn theo bảng xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2022 do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới của Liên hợp quốc (WIPO) công bố, Việt Nam xếp thứ 48/132 quốc gia và xếp vị trí thứ 3 khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt Việt Nam dẫn đầu thế giới về nhập khẩu công nghệ cao, thuộc nhóm các nền kinh tế thu nhập trung bình có tốc độ tăng trưởng hiệu suất đổi mới nhanh nhất và thuộc nhóm quốc gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ qua.
Ngoài ra thứ hạng của Việt Nam cũng đã cải thiện tại nhiều bảng xếp hạng quốc tế quan trọng khác như: Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI); Chỉ số Nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu; Chỉ số nước đáng sống nhất thế giới; Chỉ số Các nước an toàn nhất; Chỉ số Quốc gia Hạnh phúc; Chỉ số Xếp hạng bảo vệ nhà đầu tư; Chỉ số Các nước tốt nhất thế giới; Chỉ số Quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance Global Soft Power Index Report).
Theo đánh giá của Brand Finance, Việt Nam đã phát huy tương đối tốt mọi khía cạnh của quyền lực mềm, đặc biệt là sự hội nhập của Thương hiệu quốc gia Việt Nam và các thương hiệu sản phẩm hàng đầu. Uy tín quốc gia của Việt Nam trong năm qua đã tăng lên phần lớn nhờ chủ trương và phản ứng nhanh nhạy của Chính phủ, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu trong và ngoài nước cũng như sự năng động của cộng đồng doanh nghiệp.
Đặc biệt năm 2021 ghi dấu cột mốc quan trọng khi Việt Nam chính thức được xếp vào nhóm các nền kinh tế có Chỉ số tự do kinh tế (Moderately Free) ở mức trung bình với điểm tổng thể 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới). Với điểm số này, Việt Nam trở thành nền kinh tế tự do đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới trong bảng xếp hạng Chỉ số tự do kinh tế (Index of Economic Freedom 2021) của Heritage Foundation (Mỹ), tăng 15 bậc so với năm ngoái. Nguyên nhân Chỉ số tự do kinh tế của nền kinh tế Việt Nam thăng hạng là do tình hình tài chính trong nước được cải thiện. Việt Nam đứng thứ 17 trong số 40 nền kinh tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và điểm tổng thể của Việt Nam cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới.
Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, Chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam cũng liên tục gia tăng từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, với mức giảm trung bình là trên 1,4%/năm. Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ trong xếp hạng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) khi năm 2021 được WIPO xếp thứ 44 – tức nằm trong khoảng tin cậy (từ khoảng 42 đến 47) của thứ hạng này.
Trước đó năm 2019, Việt Nam xếp thứ 8 trong Top 20 nền kinh tế tốt nhất để đầu tư do Tạp chí U.S. News & World Report bình chọn. Cũng trong năm này, Việt Nam xếp vị trí thứ 23 trên tổng số 137 lực lượng quân sự trên thế giới trong bảng xếp hạng Sức mạnh Quân sự toàn cầu của Global Firepower, dựa trên hơn 55 tiêu chí để tính điểm…
Có thể thấy dù đa dạng và khác nhau về thời điểm song nhìn chung các chỉ số xếp hạng quốc tế của Việt Nam đều có xu hướng tăng góp phần khẳng định uy tín và vai trò ngày càng nâng cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Thành công này là kết tinh của quá trình nỗ lực tự hoàn thiện và đổi mới không ngừng của toàn thể hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, với tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.
Trên mặt trận kinh tế, đặt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã triển khai đồng bộ nhiều chính sách cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; sửa đổi các quy định pháp luật; thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng hiện đại, minh bạch, tạo sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế theo yêu cầu của WTO cũng như các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia.
Còn trên mặt trận ngoại giao, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, đối tác tin cậy, trách nhiệm vì mục tiêu hòa bình, hợp tác, phát triển; hướng đến con người, lấy con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của phát triển. Tất cả đã hòa quyện chặt chẽ, tạo sức mạnh tổng thể và động năng mạnh mẽ đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển bền vững và hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đời sống người dân và đóng góp vào khối thịnh vượng chung của khu vực và thế giới trong thời kỳ mới.
Trúc Anh