Tự chủ nguyên vật liệu, linh phụ kiện – Nền tảng cho phát triển một nền công nghiệp bền vững, hiệu quả

Những năm qua công nghiệp hỗ trợ (CNHT) kém phát triển không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất công nghiệp và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà còn tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp nói riêng – kinh tế Việt Nam nói chung trong dài hạn. Đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần ưu tiên phát triển CNHT, từng bước tự chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước, tạo nền tảng cho phát triển một nền công nghiệp bền vững, hiệu quả

Phát triển CNHT từng bước tự chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước là một trong những vấn đề cốt lõi để phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam

Báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy do CNHT kém phát triển nên thời gian qua các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong nước phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp nguyên phụ liệu, linh kiện đầu vào nhập khẩu; nhất là các ngành công nghiệp chủ lực như: điện tử; dệt may; da – giày – túi xách; sản xuất, lắp ráp ô tô…

Do không tự chủ được nguồn nguyên liệu nên thời điểm đầu năm 2020 – khi dịch Covid-19 bùng nổ tại các quốc gia cung ứng linh phụ kiện sản xuất chủ yếu cho nước ta (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…), các ngành công nghiệp trong nước phải đối mặt với không ít thách thức, nhất là trong việc bảo đảm các yếu tố đầu vào sản xuất. Chỉ đến khi các quốc gia này vượt qua đỉnh dịch, nguồn cung ứng nguyên phụ liệu nhập khẩu cho các ngành sản xuất của Việt Nam mới được nối lại.

Theo Bộ Công Thương, những điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ rõ thông qua việc đánh giá những tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 đến các ngành sản xuất trong nước, thể hiện ở: nội lực của ngành sản xuất hạn chế, phụ thuộc lớn vào các chuỗi cung ứng nước ngoài; CNHT kém phát triển khiến Việt Nam không tự chủ được các yếu tố đầu vào của sản xuất, dẫn đến tình trạng phụ thuộc phần lớn vào linh phụ kiện, nguyên vật liệu nhập khẩu và đây là nguyên nhân kéo giảm giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp nội địa.

Thống kê cho thấy những năm gần đây, các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến dù chiếm tỷ trọng cao (gần 40%) trong tổng doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nhưng lại chỉ đóng góp khoảng gần 14% GDP, giá trị gia tăng rất thấp so với các ngành công nghiệp khác.

Số liệu của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cũng chỉ ra 5 năm trở lại đây, trong khi tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa vẫn còn thấp và chưa có nhiều chuyển dịch đáng kể thì giá trị gia tăng từ nước ngoài lại chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, nhất là từ hai thị trường hàng đầu Trung Quốc và Hàn Quốc. Bức tranh mất cân đối này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất công nghiệp và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà còn tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp nói riêng – kinh tế Việt Nam nói chung trong dài hạn.

 Đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần ưu tiên phát triển CNHT, từng bước tự chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước, tạo nền tảng cho phát triển một nền công nghiệp bền vững, hiệu quả. Theo đại diện lãnh đạo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), để làm được điều này cần nâng cao năng lực của các doanh nghiệp CNHT thông qua phát triển một ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vững mạnh. Đây sẽ là bệ phóng cho các doanh nghiệp CNHT trong nước vươn lên trở thành nhà cung cấp, tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối cùng.

Về phía Nhà nước cần quan tâm mở rộng thị trường nước ngoài cho doanh nghiệp CNHT song song với chủ động tiếp nhận quy trình kỹ thuật, kỹ năng sản xuất từ nước ngoài để nâng cao năng lực ngành sản xuất nội địa. Đồng thời chú trọng tạo cơ hội hình thành và phát triển chuỗi giá trị trong nước thông qua thu hút đầu tư hiệu quả và thúc đẩy kết nối kinh doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp đa quốc gia, các công ty sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài. Trong đó xây dựng các khu CNHT tập trung để tạo cụm liên kết ngành; phát triển các ngành công nghiệp vật liệu nhằm tăng cường tính tự chủ về nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, từ đó nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Về phía Bộ Công Thương, phát huy vai trò “bà đỡ” của doanh nghiệp, Bộ sẽ tiếp tục có các chính sách mới trong quản lý và thu hút đầu tư để đảm bảo các doanh nghiệp FDI có sự liên kết và chuyển giao công nghệ cũng như tạo ra những lan tỏa cho doanh nghiệp CNHT trong nước. Bộ Công Thương cũng sẽ kiến nghị Chính phủ có các chính sách, giải pháp quyết liệt và nhất quán; tập trung hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm một số doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp hạ nguồn trọng điểm (ôtô, điện-điện tử, dệt may, da giày) trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp CNHT trong nước.

Dưới góc nhìn của một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành, bà Trương Thị Chí Bình – Phó Chủ tịch Hiệp hội CNHT Việt Nam (VASI) khuyến nghị về lâu dài, doanh nghiệp cần có chính sách để tạo dung lượng thị trường đủ cho CNHT phát triển như: chính sách cho ngành ôtô, cắt giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho phần linh kiện ôtô sản xuất trong nước đã được Bộ Công Thương đề xuất, cần triển khai nhanh hơn nữa; xây dựng chính sách cụ thể cho ngành công nghiệp điện tử… Ngoài ra, Chính phủ có thể ban hành Luật Công nghiệp hỗ trợ/Luật Công nghiệp để khẳng định tầm quan trọng của loại hình công nghiệp này, từ đó có các chính sách chuyên biệt nhằm thúc đẩy phát triển CNHT, đón các dòng đầu tư và dịch chuyển sản xuất từ các quốc gia.\

Hà Giang