Tại sao không nên cố gắng loại bỏ Covid mà hãy học cách chung sống?
Trên khắp thế giới, các quốc gia đang phải cân bằng giữa các trường hợp nhiễm COVID-19 và các hạn chế. Ở Anh và Mỹ, số ca mắc mới hàng ngày lên đến hàng nghìn, nhưng các hạn chế và giới hạn đang được dỡ bỏ. Ngược lại, New Zealand đã bắt đầu đóng cửa quốc gia trong thời gian ngắn chỉ để ngăn chặn một số ca nhiễm.

Trong 20 tháng qua, New Zealand, Australia và một số quốc gia Đông Á khác đã theo đuổi các chính sách cứng rắn nhằm tiêu diệt hoàn toàn COVID-19. Điểm nổi bật của các phương pháp tiếp cận “không COVID” này là kiểm soát biên giới nghiêm ngặt và sắp xếp cách ly cũng như sớm áp dụng các chốt phong tỏa khi phát hiện ra ca nhiễm mới.
Cho đến nay các nước này đã giảm thiểu số ca nhiễm và tử vong. Các tác động kinh tế mà các quốc gia áp dụng các cách tiếp cận này phải trải qua cũng ít nghiêm trọng hơn so với các quốc gia không áp dụng. New Zealand cho biết họ dự định tiếp tục chiến lược diệt trừ COVID-19 vô thời hạn. Điều này liệu có thực sự khả thi?
Trong một thế giới lý tưởng, việc loại bỏ hoàn toàn COVID-19 là điều mà tất cả các quốc gia hướng tới, và trước đó tôi cũng đã ủng hộ chiến lược này. Nhưng bây giờ đại dịch đã phát triển, cách tiếp cận đó không còn mang nhiều ý nghĩa.
Nhiều quốc gia hiện có mức độ lưu hành vi rút cao và không có mục tiêu diệt trừ nó. Và không có nhiều khả năng để các quốc gia như New Zealand hoặc Úc có thể tiếp tục giữ cho COVID-19 không xâm nhập vào nước mình.
Các nước sẽ luôn có nguy cơ bị nhiễm COVID-19 bởi những du khách bị nhiễm bệnh từ các khu vực khác. Và trong một thế giới toàn cầu hóa, việc cô lập một quốc gia với hầu hết các quốc gia khác về lâu dài có thể sẽ quá tốn kém và không thể duy trì lâu. Việt Nam, Thái Lan và Hàn Quốc từng được xem là câu chuyện thành công trong việc phòng ngừa COVID, hiện đang phải vật lộn để ngăn chặn làn sóng lây nhiễm ngày càng gia tăng trong cộng đồng.
Thực tế là vi rút đang đột biến khiến cho việc lây lan ở người khó kiểm soát hơn giai đoạn trước. Biến thể delta có khả năng lây truyền cao hơn khoảng 50% đến 100% so với vi rút gốc xuất hiện vào cuối năm 2019 và khả năng lây truyền cao hơn khoảng 50% so với biến thể alpha.
Một tỷ lệ lớn các ca nhiễm COVID không có triệu chứng. Những người bị nhiễm này rất khó phát hiện sớm và do đó có khả năng lây lan sang người khác. Cả hai yếu tố đều làm tăng nguy cơ tái lây nhiễm COVID-19 ra cộng đồng một lần nữa khi tưởng chừng như đại dịch đã được kiểm soát hoàn toàn.
Ở Úc, mọi người tỏ ra ngày càng mệt mỏi với những hạn chế lặp đi lặp lại, đặc biệt là khi COVID dường như vẫn đang tồn tại. Niềm tin vào việc ngăn chặn COVID-19 của chính phủ đang suy yếu và căng thẳng đang gia tăng. Điều đó cho thấy, vẫn có sự ủng hộ đối với cách tiếp cận nghiêm ngặt của New Zealand. Cho đến nay thì Úc và New Zealand vẫn có tỷ lệ bao phủ vắc xin thấp. Việc nới lỏng các chính sách hiện hành có thể khiến vi-rút lây lan nhanh chóng và gây ra một làn sóng nghiêm trọng tại 2 quốc gia này.
Nếu vắc-xin có khả năng miễn dịch đủ tốt để chống lại việc lây nhiễm và người dân được tiêm chủng đầy đủ, thì các ca nhiễm sẽ giảm xuống mức thấp. Sau đó, có thể đạt được việc loại trừ COVID-19 trên toàn thế giới thông qua chủng ngừa, giống như bệnh sởi. Vẫn có nguy cơ vi-rút được tái nhập từ những khu vực có số ca mắc bệnh cao hơn hoặc vi-rút vẫn tồn tại trong các nhóm chưa được chủng ngừa.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa biết khả năng bảo vệ của vắc xin kéo dài bao lâu và sự không công bằng đáng kể trong việc phân phối vắc xin trên toàn cầu là một rào cản đáng kể đối với việc xóa bỏ COVID-19 trên diện rộng. Càng ngày, quan điểm của các chuyên gia y tế công cộng cho rằng việc đạt được miễn dịch ở cấp độ quần thể là không thể đạt được vào thời điểm hiện tại.
Khả năng khác là vắc xin không đủ khả năng ngăn chặn sự lây lan của COVID-19. Trong trường hợp này, vi rút sẽ tiếp tục lưu hành, nhưng với bệnh nặng, số người nhập viện và tử vong đã giảm. Chúng ta sẽ thấy các đợt bùng phát định kỳ và có thể là dịch theo mùa, tương tự như bệnh cúm. Đây là kịch bản có nhiều khả năng hơn. Sau đó sẽ tập trung ít hơn vào việc cố gắng ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh và tập trung nhiều hơn vào việc bảo vệ những người dễ bị tổn thương thông qua tiêm chủng.
Chấp nhận rằng COVID-19 sẽ trở thành loài đặc hữu như nhiều quốc gia đã có và chuẩn bị cho tình huống đó có thể là chiến lược kết thúc đại dịch thực tế duy nhất cho tất cả các quốc gia. Do đó, các quốc gia có mức độ lây nhiễm và khả năng miễn dịch thấp (như Úc và New Zealand), nên khẩn trương tiêm chủng cho người dân của họ. Đây là chìa khóa nếu họ muốn giảm tỷ lệ tử vong khi nhiễm COVID-19 được thấy ở châu Âu và châu Mỹ.
Nhưng một khi điều này được thực hiện, việc tiếp tục đóng cửa tái diễn có thể gây xáo trộn kinh tế xã hội và thách thức để duy trì sự ủng hộ của công chúng. Cùng với việc vi-rút dễ lây lan hơn, gần như không thể hoàn toàn đóng cửa biên giới trong thời gian dài và thực tế là các quốc gia khác không theo đuổi chính sách loại bỏ COVID một cách triệt để, những yếu tố này có thể sẽ khiến việc loại bỏ hoàn toàn vi-rút là không thể thực hiện được.
Bài viết của Andrew Lee, Chuyên gia y tế cộng đồng toàn cầu.
Hoàng Oanh dịch