Mức phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai tăng mạnh theo Nghị định 91/2019/NĐ-CP
Xoay quanh mức xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Nghị định số 91/2019/NĐ-CP thay thế Nghị định số 102/2014/NĐ-CP với nhiều điểm mới.
Cụ thể theo quy định của Nghị định 91/2019/NĐ-CP, bắt đầu từ ngày 5/1/2020, các hành vi tự ý chuyển đất trồng lúa sang đất ở; phân lô, bán nền chưa đủ điều kiện; lấn, chiếm đất,… sẽ bị phạt tiền cao nhất lên đến 1 tỷ đồng. Trong đó đối với trường hợp lấn, chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn, tùy vào diện tích đất lấn sẽ bị phạt từ 10 triệu đồng đến 500 triệu đồng (nếu diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,05 ha phạt tiền từ 10 – 20 triệu đồng; tương tự từ 0,05 ha đến dưới 0,1 ha phạt 20 – 40 triệu đồng; từ 0,1 ha đến dưới 0,5 ha phạt 40-100 triệu đồng; từ 0,5 đến dưới 1 ha phạt 100 – 200 triệu đồng; từ 1 ha trở lên phạt 200 – 500 triệu đồng)
Trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị thì mức xử phạt bằng 2 lần mức xử phạt đối với loại đất tương ứng quy định nêu trên, mức phạt tối đa không quá 500 triệu đồng đối với cá nhân và không quá 1 tỷ đồng đối với tổ chức. Mức này tăng mạnh so với quy định hiện hành khi phạt chỉ dao động 1-10 triệu đồng và không phân cấp cụ thể mức độ lấn chiếm.
Trường hợp lấn, chiếm đất thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình và đất công trình có hành lang bảo vệ đất trụ sở làm việc và cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thì hình thức và mức xử phạt thực hiện theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực về hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở
Cũng theo Nghị định 91/2019/NĐ-CP, trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê không đủ một trong các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hoặc đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP nhưng chưa được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 194 của Luật đất đai thì hình thức và mức xử phạt từ 20 – 500 triệu đồng tùy theo diện tích.
Đáng chú ý, trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phần lô, bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê không đủ từ hai điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP trở lên thì hình thức và mức xử phạt từ 50 triệu đến 1 tỷ đồng tùy diện tích.
Nghị định cũng quy định biện pháp khắc phục là buộc làm thủ tục trình UBND cấp tỉnh cho phép phân lô, bán nền đối với trường hợp chưa có văn bản cho phép của UBND cấp tỉnh; Buộc chủ đầu tư phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 đã được phê duyệt; hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai; Buộc chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm trong việc hoàn thành xây dựng nhà theo đúng thiết kế được phê duyệt; Buộc chủ đầu tư nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm…
Ngoài ra Nghị định 91/2019/NĐ-CP cũng quy định hành vi sử dụng đất trồng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các điểm a và d khoản 1 Điều 57 của Luật đất đai sẽ bị phạt tiền đến 500 triệu đồng. Mức phạt sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các điểm c và d khoản 1 Điều 57 của Luật đất đai. Cụ thể, chuyển đất rừng đặc dụng là rừng trồng, đất rừng phòng hộ là rừng trồng, đất rừng sản xuất là rừng trồng sang mục đích khác trong nhóm đất nông nghiệp thì sẽ bị phạt tiền từ 3-50 triệu đồng tùy thuộc vào diện tích đất chuyển mục đích trái phép. Chuyển đất rừng đặc dụng là rừng trồng, đất rừng phòng hộ là rừng trồng, đất rừng sản xuất là rừng trồng sang đất phi nông nghiệp thì phạt tiền từ 3-250 triệu đồng. Trường hợp chuyển đất rừng đặc dụng là rừng tự nhiên, đất rừng phòng hộ là rừng tự nhiên, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên sang mục đích khác thì hình thức và mức xử phạt được thực hiện bằng 02 lần mức phạt tương ứng với từng trường hợp chuyển mục đích. Theo đó, mức phạt sẽ tăng lên từ 6 triệu đồng đến 500 triệu đồng.
Trường hợp làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất, tùy vào diện tích đất bị hủy hoại sẽ bi phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 150 triệu đồng. Trường hợp gây ô nhiễm đất, ngoài phạt tiền còn buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất. Ngoài phạt tiền, đối tượng vi phạm còn phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất.
Ngọc Anh