Các nhà sản xuất muốn Biden thúc đẩy chương trình ‘Mua hàng Mỹ’
Tổng thống đắc cử Joe Biden đang cam kết sử dụng quyền lực của chính phủ liên bang để thúc đẩy việc mua hàng hóa của Mỹ và khởi động sản xuất trong nước. Một số công ty cho biết các quy tắc quá hạn chế có thể làm tăng chi phí của họ và làm phức tạp chuỗi cung ứng đối với các mặt hàng không được sản xuất tại Mỹ.
Các đề xuất “mua hàng Mỹ” của Biden lặp lại các đề xuất của các tổng thống trước, bao gồm cả Tổng thống Trump, người đã ban hành lệnh hành pháp để thúc đẩy liên bang mua hàng hóa Mỹ nhiều hơn và tìm cách sử dụng thuế quan để gây bất lợi cho các nhà sản xuất nước ngoài. Kết quả của các công ty không đồng đều, một số được hưởng lợi từ việc tăng doanh số bán hàng và một số khác phải chịu chi phí cao hơn.
Biden đã nói trong chiến dịch tranh cử của mình và trong một bài phát biểu sau cuộc bầu cử rằng ông sẽ thắt chặt các quy tắc “mua hàng Mỹ”. Ông đã đề xuất 400 tỷ USD chi tiêu liên bang cho các dự án cơ sở hạ tầng sử dụng các sản phẩm của Mỹ như thép sản xuất trong nước và đồ bảo hộ cho nhân viên y tế đang chiến đấu với đại dịch. Ông cũng đề xuất Quốc hội dành thêm 300 tỷ USD để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới. Phát biểu hồi tháng 11, ông nói: “Từ ô tô đến các kho dự trữ, chúng tôi sẽ đều mua hàng Mỹ”.
Tuy nhiên, những lời hứa đó có thể khó trở thành hiện thực và có thể vấp phải sự phản kháng trong một Quốc hội đang bị chia rẽ. Một số nhà kinh tế và chuyên gia thương mại cho biết việc chính phủ mua hàng như vậy có thể giúp ích cho một số công ty nhưng không giúp ích cho ngành công nghiệp nói chung. Một số giám đốc điều hành và nhà kinh tế cho biết các chính sách này có rủi ro bao gồm giá cao hơn và sự trả đũa từ các nước khác đối với hàng xuất khẩu của Mỹ.
Mary Lovely, một thành viên cấp cao tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson cho biết: “Nó làm tăng chi phí của những thứ sẽ được mua”.
Nhiều nhà sản xuất Mỹ đã vượt qua đại dịch tốt, nhưng một năm kinh tế bất ổn tiếp tục đặt ra những thách thức cho ngành. Dữ liệu của Cục Dự trữ Liên bang cho thấy sản lượng sản xuất đã giảm mạnh khi bắt đầu đại dịch, nhưng đã tăng trong 7 tháng và chỉ thấp hơn mức năm ngoái 3,4%. Nhu cầu tiêu dùng mạnh mẽ đối với các sản phẩm như thiết bị gia dụng và ô tô đã khiến các nhà máy hoạt động hết công suất ngay cả khi số ca Covid-19 gia tăng và tình trạng thiếu công nhân có sẵn đã cản trở sản xuất tại một số công ty.
Một số nhà sản xuất cho biết các vấn đề về chuỗi cung ứng trong thời kỳ đại dịch và căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc có thể giúp Biden xây dựng sự ủng hộ cho các sáng kiến “mua hàng Mỹ”.
Morey Corp., một nhà sản xuất thiết bị truyền thông không dây có trụ sở tại Illinois, đã chuyển các hoạt động sản xuất và kỹ thuật từ Châu Á sang Mỹ trong 5 năm. Giám đốc chiến lược Ryne DeBoer cho biết Morey nhận thấy rằng các nhà sản xuất xe tải và thiết bị xây dựng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm do Mỹ sản xuất để đổi lấy chất lượng tốt hơn và hỗ trợ dịch vụ nhiều hơn từ Morey. Ông nói rằng ông hy vọng điều đó cũng xảy ra dưới chính quyền Biden.
Nhưng các nhà sản xuất khác dựa vào chuỗi cung ứng toàn cầu và nhu cầu từ các quốc gia khác có thể bị ảnh hưởng bởi các yêu cầu sản xuất tại Mỹ.
Nhiều công ty trong số này cho biết việc chính quyền Trump áp đặt mức thuế hai con số đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc làm tổn hại đến hoạt động kinh doanh của họ.
Rakesh Tammabattula, giám đốc điều hành của QYK Brands LLC cho biết: “Chúng tôi phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu thô từ các quốc gia khác”.
Những người ủng hộ kế hoạch của Biden cho biết việc sẵn sàng trả nhiều hơn cho hàng hóa trong nước sẽ giúp các công ty trang trải chi phí khởi nghiệp và khôi phục chuỗi cung ứng bị mất đi khi hoạt động sản xuất chuyển ra nước ngoài.
Linh Lan