Xây dựng và phát triển văn hóa theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
50 năm qua, bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một văn kiện chính trị hết sức quan trọng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Bởi gửi gắm trong đó là hết thảy ham muốn và tâm nguyện trọn cuộc đời của Người – Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa kiệt xuất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ các đại biểu dự Ðại hội đại biểu Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ ba, tháng 3/1963.
Di chúc là cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh, thể hiện tầm nhìn văn hoá rộng lớn và trí tuệ văn hoá sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; dạt dào cảm xúc, chứa chan tình yêu và sự gắn bó sâu xa với con người, cuộc đời và thiên nhiên; là ánh sáng chỉ đường, là sức mạnh thôi thúc hành động, chẳng những đối với nhân dân ta mà còn đối với tất cả những ai đang đấu tranh cho tự do, độc lập, cho sự tiến bộ của loài người trên trái đất này.
VĂN HÓA PHẢI SOI ĐƯỜNG CHO QUỐC DÂN ĐI
Trên hành trình cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt Nam với văn hóa phương Đông và phương Tây, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đến với chủ nghĩa Mác và quyết tâm đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh trở về nước lãnh đạo nhân dân Việt Nam “kiên quyết chiến đấu, tranh quyền thống nhất và độc lập cho nước nhà để cho văn hoá cũng như chính trị và kinh tế, tín ngưỡng, đạo đức đều được phát triển tự do”[1].
Người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc, tổ chức lực lượng vũ trang, vận động nhân dân đấu tranh giành độc lập vào năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, giải phóng các tầng lớp nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến, từng bước đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội để xóa bỏ tận gốc bóc lột, bất công và mở ra một thời đại mới cho nền văn hóa Việt Nam vốn có bề dày hàng nghìn năm lịch sử.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh lập tức đặt ra vấn đề phải sớm xây dựng được nền văn hóa mới với những yêu cầu: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng”[2]. Cuộc cách mạng văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới do Người khởi xướng và lãnh đạo được tiến hành với hàng loạt các chủ trương và biện pháp, từ cuộc vận động diệt giặc dốt thông qua các phong trào thanh toán nạn mù chữ, phong trào Bình dân học vụ đến các cuộc vận động xây dựng đời sống mới, sửa đổi lối làm việc, từ yêu cầu phát triển nền giáo dục và y tế quốc dân đến từng bước gây dựng phong trào văn nghệ nhân dân… Tất cả cùng theo phương châm “văn hóa phải phục vụ sản xuất tiết kiệm, phục vụ nhân dân, phục vụ đoàn kết, phục vụ Tổ quốc”[3].
Coi văn hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định văn hoá tồn tại và phát triển trong mối liên hệ biện chứng với các yếu tố kinh tế và chính trị và chịu sự quy định của kinh tế và chính trị. Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”[4]. Không chỉ thấy vai trò quyết định của kinh tế và chính trị đối với văn hoá, Hồ Chí Minh còn thấy được vai trò to lớn của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”[5]. Chính vì vậy, Người đòi hỏi “văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Vì vậy, nội dung văn hoá phải có ý nghĩa giáo dục… Văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất”[6].
Văn hoá còn là một mặt trận để đấu tranh chính trị, “không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[7]. Như vậy, Hồ Chí Minh một mặt coi trọng vai trò quyết định của kinh tế, chính trị tới văn hoá; đồng thời Người cũng thấy được vai trò to lớn tác động trở lại của văn hoá đối với kinh tế, chính trị và xã hội, văn hóa là cơ sở và là động lực tinh thần cho sự phát triển vững chắc của mọi mặt đời sống xã hội, cho sự tiến bộ của xã hội.
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG DI CHÚC
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt bút viết những dòng đầu tiên của Tài liệu tuyệt đối bí mật (Di chúc) vào một ngày tháng 5/1965, khi mà lịch sử lại đặt dân tộc ta trước một thử thách cực kỳ nghiêm trọng: Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân vào miền Nam, chuyển chiến lược chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ. Hậu phương lớn miền Bắc thì phải tiếp tục chống lại cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt nhằm biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá của đế quốc Mỹ. Thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ hơn ai hết tình hình sức khỏe của mình và sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ mà dân tộc cần phải vượt qua, nhưng Người đã viết: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà’”. Trong những lần Chủ tịch Hồ Chí Minh sửa chữa, bổ sung bản Di chúc sau đó, đoạn văn này không hề thay đổi. Đến bản cuối cùng (tháng 5/1969), ý tưởng này được đưa thêm vào đoạn mở đầu Di chúc: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết như vậy. Đây là sự tài tình của Người trong nghệ thuật tuyên truyền, bởi nói ngay về công cuộc chống Mỹ, cứu nước là nói trúng vào tâm lý của những người Việt Nam yêu nước bấy giờ.
Nội dung này cũng chính là một trong “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra từ năm 1943 [8]: biện pháp xây dựng “tâm lý”, xây dựng “tinh thần độc lập tự cường”, cũng có nghĩa là sự giáo dục, định hướng để hun đúc nên tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự cường – cơ sở nền tảng bảo đảm cho sự đoàn kết, đồng thuận dân tộc, điều kiện để tạo nên sức mạnh bảo vệ độc lập dân tộc, chống lại mọi sự xâm lược, phá hoại từ bên ngoài. Qua việc từ “nhất định” được sử dụng tới 5 lần, lại nhấn mạnh ”đó là một điều chắc chắn”, cho thấy suy nghĩ của Người về một chân lý, một thắng lợi tất yếu phải giành được của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ khó khăn này. Đó là niềm tin chính trị sắt đá của lãnh tụ Hồ Chí Minh, một niềm tin được xây dựng trên cơ sở nắm vững lý luận khoa học Mác- Lênin, cùng với sự từng trải trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của Người đem lại. Đó là niềm tin của một nhà hiền triết phương Đông, thấu hiểu sâu sắc phép biện chứng duy vật, thế giới quan cách mạng, cũng là niềm tin của một vị lãnh tụ, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới vào con người, vào Đảng, vào quần chúng nhân dân, vào thế hệ trẻ Việt Nam,… Niềm tin chính trị ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó là trụ cột tinh thần, là nhân tố cốt lõi cũng cố niềm tin vững chắc cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, luôn đau đáu nỗi niềm trăn trở làm sao phải xây dựng Đảng, củng cố Đảng thật trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, đày tớ trung thành của nhân dân, có thể hiểu tại sao trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại “trước hết nói về Đảng” mà cụ thể là về văn hoá Đảng. Văn hoá Đảng là một bộ phận của văn hoá dân tộc; là nơi hội tụ, kết tinh, biểu hiện tập trung nhất của văn hoá, trí tuệ dân tộc; là thước đo trình độ trưởng thành của Đảng và là nhân tố quan trọng quyết định năng lực lãnh đạo, khả năng cầm quyền của Đảng. Từ góc độ văn hóa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đoàn kết chính là giá trị, là sức mạnh và cũng là hạt nhân quan trọng của văn hóa Đảng: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, “nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đối với Người, văn hóa Đảng chính là trí tuệ, lương tâm và sự trong sạch của Đảng, xây dựng văn hoá Đảng, để Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh, là danh dự và lương tâm của dân tộc là trách nhiệm của mỗi tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên. Để làm được điều đó, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” và mỗi cán bộ, đảng viên phải “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
Đồng thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng” cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cụm từ “đạo đức cách mạng” được sử dụng đến hai lần và cả hai lần đều được in nghiêng cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới vấn đề này. Coi văn hóa đạo đức là nội dung bên trong của lối sống nên Hồ Chí Minh coi trọng việc giáo dục, tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng. Một khi cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng tất yếu sẽ đoàn kết và “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Có đạo đức mới đoàn kết tốt; thực hiện đoàn kết tốt, chặt chẽ là đảng viên đã thấm nhuần đạo đức cách mạng, sẽ làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trước hết là ở những giá trị đạo đức của nó, ở phẩm chất đạo đức và nhân cách của những người cộng sản. Một nền văn hóa có những con người có đạo đức, nhân cách, có lối sống cao đẹp như vậy thì những cái xấu, cũ kỹ, hư hỏng nhất định sẽ bị quét sạch.
Quan tâm đến con người với ý nghĩa là chủ thể sáng tạo của mọi giá trị văn hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm huyết chăm lo phần “công việc đối với con người” và đây cũng phần nội dung được viết dài nhất trong Di chúc. Trong bản thảo tháng 5/1968, Hồ Chí Minh vạch ra những dự kiến về việc xây dựng đất nước sau chiến tranh, có tính đến từng đối tượng cụ thể: thương binh, gia đình liệt sĩ, bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, nông dân. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm để ghi nhận sự hi sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với những người đã dũng cảm hi sinh một phần xương máu của mình hay đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ, Người căn dặn “phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn”, “phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi và thanh niên xung phong ưu tú thì cần cho đi học thêm các ngành, các nghề để đào tạo thành “đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Đối với phụ nữ, “phải có kế hoạch thiết thực đề bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ” để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo.
Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng những lời lẽ rất chí tình, với sự đồng cảm sâu sắc từng đối tượng được nêu trên, và đặc biệt là Người đã đánh giá đúng tinh thần thái độ và sự đóng góp của họ vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Đặc biệt, thấm nhuần đạo lý văn hoá truyền thống của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho đồng bào nông dân “để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất” sau nhiều năm liên tục ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngay cả với những người được coi là nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mong muốn “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”. Quan điểm này thể hiện rõ lòng nhân ái, đức hiếu sinh, văn hoá khoan dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó cũng chứng tỏ, sự nghiệp cách mạng mà chúng ta tiến hành thực sự là “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Đó là một cuộc cách mạng chính nghĩa và nhân văn, xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân, hợp với lòng dân, hợp với xu thế của thời đại và thực sự là cuộc hành trình đến những giá trị văn hóa đích thực nhất.
THẤM NHUẦN THEO DI CHÚC CỦA NGƯỜI
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được công bố cách đây 50 năm, nghĩa là chúng ta đã có 50 năm thực hiện Di chúc của Người. 50 năm qua, Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo toàn dân thực hiện Di chúc và đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa: Giành độc lập và thống nhất trọn vẹn cho đất nước; tạo dựng được hình ảnh một đất nước Việt Nam vững vàng, ổn định về chính trị, vượt qua khủng hoảng kinh tế – xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới thành công, đưa kinh tế phát triển liên tục với tốc độ khá cao, cải thiện một bước đáng kể đời sống vật chất – vǎn hoá của nhân dân, có vị trí uy tín quốc tế ngày càng lớn trong khu vực và trên thế giới, ngày càng đậm nét. Những kết quả quan trọng đó có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, khẳng định trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta, dân tộc ta, khẳng định chúng ta đang đi theo đúng con đường mà Người đã lựa chọn.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về văn hóa, được thể hiện thông qua các chỉ thị, nghị quyết, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,v.v.. đã góp phần bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Văn hóa đã được Đảng, Nhà nước quan tâm đúng mức trong các chính sách kinh tế – xã hội; quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người và những đặc trưng của văn hóa, đặc tính của con người Việt Nam được xác định đầy đủ hơn; vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị – xã hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa được đề cao. Hệ thống thể chế, thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từng vùng, miền được kế thừa và có bước khởi sắc, nhất là trong điều kiện hội nhập, giao lưu văn hóa với thế giới. Nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo; xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới; nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được quan tâm đầu tư gìn giữ; nhiều tác phẩm về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới có chất lượng tốt. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện và có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống xã hội. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng; giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều sắc thái mới, v.v. Bởi vậy, những năm qua, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, “bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên”[9].
Đặc biệt, nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá Đảng, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhiều lần đề cập vấn đề này và xem đây là “nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã khẳng định: “Để xây dựng và phát triển văn hóa trong xã hội, trước hết “phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước… Văn hóa đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên”[10]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI khẳng định: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”[11]; trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân.
Nhất quán quan điểm nêu trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh [12]. Trong đó, cần tập trung xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị; đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng; xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm; xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.
Tự hào về những thành tựu đạt được, song chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thử thách không nhỏ: “Đời sống văn hóa, tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao”[13]. Bên cạnh đó, “hệ thống thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”[14]. Đáng chú ý là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, mất dân chủ, vô trách nhiệm trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang làm vẩn đục văn hóa trong Đảng, làm tổn hại uy tín, thanh danh của Đảng, làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, làm phương hại tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó chính là những biểu hiện suy thoái về văn hóa, sự yếu kém và thiếu hụt năng lực văn hóa, sự lệch chuẩn văn hóa của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đây là vấn đề hệ trọng liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Thực tế, sự suy thoái về đạo đức, lối sống nếu không ngăn chặn kịp thời, chẳng những gây tổn thương nặng nề cho văn hóa mà còn làm suy giảm sự phát triển kinh tế – xã hội, đe dọa trực tiếp tới sự ổn định và bền vững của chế độ chính trị. Hơn bao giờ hết, chúng ta càng thấy thấm thía hơn lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc về nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng và chỉnh đốn đối với Đảng cầm quyền là làm cho Đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo, đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, phải làm cho đảng viên “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng; nghiêm túc vận dụng những lời răn dạy trong Di chúc của Người; tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; xây dựng Ðảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị thật sự gương mẫu, nói đi đôi với làm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước, giữ vững niềm tin yêu của nhân dân./.
Thanh Mai – Kim Yến
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, xuất bản lần thứ ba, Hà Nội, 2011, t.5, tr.157
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.173
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.603
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.470
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.470
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.246
[8] Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc: “1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4. Xây dựng chính trị: dân quyền; 5. Xây dựng kinh tế”
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.123
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.53
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.125
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.125