Các tổ chức kinh tế dự báo như thế nào về tăng trưởng GDP của Việt Nam?
Theo dự báo của các tổ chức kinh tế, năm nay tốc độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ cao nhất khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên với độ mở kinh tế cao, Việt Nam cũng không thể miễn nhiễm với những khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu.

Triển vọng tích cực…
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy quý III/2022 GDP của Việt Nam tăng 13,67%, lũy kế 9 tháng GDP tăng 8,83% – mức tăng cao nhất cùng giai đoạn của 12 năm qua.
Sau khi Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố kết quả GDP, ông Frederic Neumann – Đồng giám đốc Khối Nghiên cứu kinh tế châu Á của HSBC nhận xét đặt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục gặp khó (lạm phát cao ở Mỹ và các nước phát triển, khủng hoảng năng lượng kéo giảm nhu cầu tiêu dùng ở châu Âu; chính sách zero Covid ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường bất động sản Trung Quốc…), Việt Nam vẫn kiên cường hồi phục và kết quả GDP quý III thực sự là một “điểm sáng” đáng khích lệ.
Trong cập nhật đến tháng 7, HSBC dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm nay sẽ đạt 6,9%; về phía Ngân hàng Phát triển Châu Á (ABD) giữ nguyên dự báo tăng trưởng 6,5%; Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng 7,2%.
Mặc dù đưa ra các con số dự báo khác nhau song các tổ chức kinh tế đều đồng thuận quan điểm tăng trưởng của Việt Nam có thể cao nhất khu vực; trong đó WB dự báo Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng cao nhất Đông Á – Thái Bình Dương, còn HSBC dự báo tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á.
Ông Alain Cany – Chủ tịch EuroCham đánh giá triển vọng kinh tế của Việt Nam rất tích cực và GDP năm nay có thể đạt 6,5% nhờ đòn bẩy nguồn nhân lực trẻ năng động, nhanh nhạy nắm bắt khoa học công nghệ.
Ngoài ra dòng vốn FDI vẫn đang ào ạt đổ vào Việt Nam với động lực là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) và chiến lược “Trung Quốc +1” của nhiều Tập đoàn. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy trong 9 tháng đầu năm, vốn FDI vào Việt Nam đạt 15,4 tỷ USD, tăng 16,3% – mức cao nhất kể từ năm 2018.
Tuy nhiên trái ngược với bức tranh sáng của dòng vốn FDI, thị trường chứng khoán gần đây lại khá ảm đạm. Ông Brook Taylor – Tổng Giám đốc VinaCapital cho biết các nhà đầu tư đang bị bủa vây bởi những hoang man, lo lắng khi từ đầu năm đến nay thị trường này đã sụt giảm tới 23%. Để đảm bảo an toàn, một số nhà đầu tư đã rút đi tìm đến các thị trường mới nổi khác hoặc đưa vốn về Mỹ khi Fed tăng lãi. “Tuy nhiên xét trong dài hạn, triển vọng tăng trưởng của Việt Nam vẫn rất tích cực. Chúng tôi dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng 8% năm nay và 6% trong một thập kỷ tới. Đây là thời kỳ tốt để đầu tư vào thị trường chứng khoán, nhất là với tầm nhìn 3-5 năm tới” – ông Brook Taylor nhấn mạnh.
….Rào cản không nhỏ
Tuy dự báo của các tổ chức kinh tế khá lạc quan song với độ mở kinh tế cao, Việt Nam khó có thể miễn nhiễm với những khó khăn của kinh tế toàn cầu, xét trên 3 yếu tố: sức khỏe các đối tác xuất – nhập khẩu của Việt Nam; đồng USD tăng giá; khó khăn trong chuỗi cung ứng.
Ông Alain Cany cảnh báo giá năng lượng và hàng hóa tại châu Âu đang tăng cao. Do gián đoạn chuỗi cung ứng, hàng tiêu dùng, dệt may, điện tử ngày càng đắt đỏ khó tìm; hậu quả là các quốc gia thiên về sản xuất như Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương, nếu chiến sự kéo dài thì những thương tổn này càng lớn hơn. “Chừng nào Trung Quốc còn chống dịch bằng cách phong tỏa, Việt Nam còn gặp khó vì đây là nơi cung cấp tới 55% nguyên phụ liệu, linh phụ kiện nhập khẩu; bên cạnh đó là những khó khăn về nguồn nhân lực và đây cũng chính là các yếu tố làm suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư. Bằng chứng là Chỉ số Môi trường Kinh doanh (BCI) của EuroCham quý II đã giảm 4,4 điểm phần trăm, dù vẫn duy trì trên vùng tích cực” – Chủ tịch EuroCham nêu dẫn chứng.
Đồng quan điểm, ông Frederic Neumann cho rằng rủi ro xuất khẩu của Việt Nam khá lớn do nhu cầu tiêu dùng ở các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ, Trung Quốc sụt giảm. Chưa kể những hệ lụy xuất phát từ sự tăng giá của đồng USD. Ông Neumann lưu ý rằng Việt Nam cũng mong muốn thúc đẩy tăng trưởng bằng hạ tầng nhưng để triển khai các khoản đầu tư này cũng cần nhập khẩu hàng hóa (thanh toán bằng USD). Tương tự Việt Nam xuất khẩu lớn nhưng đầu vào cũng cần nhập khẩu lớn (cũng thanh toán chủ yếu bằng USD).
Dù vậy, tỷ giá được cho là không quá lo ngại. Ông Ngô Đăng Khoa – Giám đốc Toàn quốc Khối Kinh doanh Tiền tệ và Thị trường vốn HSBC Việt Nam cho biết dù chịu áp lực nhiều song từ đầu năm đến nay VND chỉ giảm khoảng 4%, thấp hơn nhiều so với mức giảm của baht Thái hay yen Nhật. HSBC Việt Nam dự đoán năm nay cán cân vãng lai sẽ dương nhẹ; tỷ giá vào khoảng 23.700 đồng đổi một USD vào cuối năm và khoảng 23.900 đồng vào giữa năm sau.
Ngoài ra khó khăn trong chuỗi cung ứng vẫn sẽ tiếp diễn nhưng một số doanh nghiệp lớn cho rằng Việt Nam vẫn còn khả năng xoay xở. Chủ tịch Unilever Việt Nam Nguyễn Thị Bích Vân nhận định thách thức chuỗi cung ứng hiện diện khắp nơi nhưng với khả năng ổn định trên nhiều ngành khác nhau, Việt Nam có thể vượt qua được khó khăn. Bà Vân cho biết hiện 95% hàng hóa Unilever cung cấp cho thị trường Việt Nam là sản xuất ngay trong nước. Với 80% nguyên liệu nhập khẩu, lẽ dĩ nhiên Unilever Việt Nam sẽ chịu tác động song đi cùng với đó là cơ hội lớn trong việc mở rộng chuỗi cung ứng và tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Cũng như Unilever Việt Nam, Chủ tịch REE Nguyễn Thị Mai Thanh xác nhận tình hình chuỗi cung ứng hiện nay tác động lớn đến công ty. Giá thép và nhiều vật liệu khác tăng khiến việc kiểm soát chi phí khó hơn song REE vẫn giữ cam kết hoàn thành đúng tiến độ các dự án cho khách hàng. “Chúng tôi có những thảo luận trước với các nhà cung cấp, ký hợp đồng tổng giá trị lớn để ổn định giá suốt thời gian dự án. Tôi hy vọng có thể kiểm soát được chi phí” – bà Thanh cho hay.
Thế Hiển