Các gói kích thích kinh tế thời Covid: Từ thế giới nhìn sang Việt Nam…
Đại dịch Covid-19 bùng phát đẩy nền kinh tế toàn cầu vào cuộc khủng hoảng kép trên cả hai mặt trận y tế và kinh tế. Chính vì vậy bên cạnh nỗ lực chiến đấu với đại dịch; chính phủ các nước cũng dành ưu tiên cho việc triển khai các chính sách, các gói kích thích nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn và khôi phục nền kinh tế.

Cách chính phủ các nước triển khai gói hỗ trợ
Bản đồ thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy trung bình các gói phục hồi kinh tế mà chính phủ các nước đã công bố (bao gồm cả những biện pháp dự kiến duy trì đến đầu năm 2022) dao động từ 5% đến 24% GDP năm 2019 ở các nền kinh tế tiên tiến và ưu tiên phân bổ cho đầu tư công hoặc kích thích tiêu dùng. Còn tại thị trường mới nổi, tỷ lệ này khiêm tốn hơn, chỉ từ 1% đến 9% GDP.
Sở dĩ quy mô các gói phục hồi kinh tế (so với GDP) ở mỗi nước có khác nhau là do sự khác biệt về cơ chế tự ổn định của nền kinh tế (các chính sách tự động điều chỉnh thu chi ngân sách để hỗ trợ kinh tế qua các giai đoạn khác nhau); dư địa tài khóa trước đại dịch; quan điểm dùng nhiều các biện pháp tài khóa gián tiếp (cho vay; bảo lãnh khoản vay) của các nước có không gian tài khóa bị hạn chế
Về các gói phục hồi sắp tới, tổng hợp dữ liệu từ Ngân hàng trung ương Australia (RBA) cho thấy quy mô và thiết kế của các gói hỗ trợ tài khóa giai đoạn phục hồi sắp tới có sự khác nhau giữa các quốc gia. Trong đó dự kiến gói hỗ trợ tài khóa của Mỹ sẽ có quy mô rất lớn, tương đương 9% GDP, tập trung vào đầu tư hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng trong giai đoạn 10 năm. Về phía EU sẽ triển khai kết hợp các khoản viện trợ không hoàn lại với các khoản cho vay trong giai đoạn 2021 – 2026. Các biện pháp này sẽ được tài trợ bởi khoản nợ do EU phát hành với quy mô bằng 5% GDP của khối này.
Ở một số nền kinh tế nhỏ hơn, dự kiến gói hỗ trợ tài chính cho giai đoạn phục hồi có thể sẽ lớn, khoảng 6% GDP năm 2019. Còn tại các thị trường mới nổi – nơi không gian tài khóa còn hạn hẹp, một số nước do mất cân đối tài chính từ trước đã phải đối mặt với áp lực giảm thâm hụt tài khóa nhiều hơn; ngược lại vẫn có một số nước có năng lực tài khóa tốt. Đơn cử Ấn Độ đã công bố các biện pháp kích thích kinh tế (khuyến khích tiêu dùng, tăng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng) ngay sau khi dịch bệnh Covid – 19 bùng phát hồi đầu năm 2020. Tương tự Trung Quốc cũng bắt đầu triển khai các biện pháp hỗ trợ tài chính quan trọng vào giữa năm 2020.
Trong gần 2 năm qua, chính phủ các nước giàu đã chứng tỏ sự linh hoạt trong phản ứng tài khóa. Trong khi đó hầu hết các nền kinh tế mới nổi khác vẫn chưa công bố hỗ trợ đáng kể cho giai đoạn phục hồi. Theo các chuyên gia, một phần nguyên nhân là do họ vẫn đang dành ưu tiên cho việc củng cố hệ thống y tế để đối phó với các đợt bùng phát dịch cũng như hỗ trợ triển khai các chương trình tiêm chủng.
Khuyến nghị nào cho Việt Nam?
Bản đồ thống kê của IMF cho thấy trong 14 nước đang phát triển có thu nhập thấp (LIDCs), chi tiêu ngân sách cho dịch bệnh của Việt Nam (so với GDP) chỉ đứng trên Myanmar và Niger. Cụ thể Việt Nam nằm ở vùng màu đỏ, tức chi tiêu ít hơn 2,5% GDP 2020. Theo tính toán cùa IMF, Việt Nam đã chi tổng cộng 9,4 tỷ USD (tương đương 2,8% GDP) để ứng phó và khắc phục các tác động của đại dịch Covid-19.
Bộ Kế hoạch & Đầu tư đang trình các cơ quan chức năng chương trình khôi phục kinh tế, trong đó có đề xuất về gói phục hồi kinh tế. Các chuyên gia kinh tế dự đoán quy mô gói này có thể lên tới 800.000 tỷ đồng (hơn 35 tỷ USD). Còn ông Nguyễn Đức Kiên – Tổ trưởng Tổ tư vấn Thủ tướng khẳng định quy mô không thấp hơn nửa triệu tỷ đồng, tương đương tổng đầu tư công hằng năm. Năm 2020, GDP của Việt Nam (đã đánh giá lại) đạt 343 tỷ USD, gói phục hồi nếu đạt 800.000 tỷ đồng sẽ chiếm gần 10% GDP. Trường hợp là nửa tiệu tỷ đồng như phân tích của ông Nguyễn Đức Kiên, sẽ chiếm khoảng 5% GDP.
Là người trực tiếp tham gia góp ý vào dự thảo phục hồi kinh tế lần này, ông Kiên cho biết thêm nếu tổng quy mô gói phục hồi kinh tế lên tới 800.000 tỷ đồng sẽ đóng vai trò vốn mồi trong đầu tư công, kích thích tăng trưởng, tạo việc làm… Một đồng vốn bỏ ra có thể huy động 4-5 lần đồng vốn khác trong nền kinh tế cùng tham gia. Nếu huy động được gấp bốn lần, nền kinh tế sẽ có khoảng 4 triệu tỷ đồng để hỗ trợ trong 4-5 năm tới.
Về mặt phân bổ, các chuyên gia quốc tế cho rằng khi dịch bệnh được kiểm soát và vaccine phủ rộng thì trọng tâm của hỗ trợ tài chính của các nước sẽ chuyển từ bảo vệ việc làm, lao động sang hướng tạo lập nền tảng. Điều này đồng nghĩa với các nước sẽ dành ưu tiên nhiều hơn cho đầu tư công, đặc biệt là vào các sáng kiến xanh và kỹ thuật số; khuyến khích tiêu dùng và đầu tư tư nhân; các chương trình đào tạo lại người lao động trong những lĩnh vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì dịch.
Khảo sát tại các nền kinh tế tiên tiến cho thấy hầu hết các nước này đều phân bổ gói phục hồi vào 4 lĩnh vực gồm: đầu tư công và khuyến khích đầu tư; khuyến khích tiêu dùng; đào tạo; các lĩnh vực khác. Trong đó phần lớn các nước đều chọn phân bổ chính vào đầu tư công. Cụ thể Italy, Tây Ban Nha, Mỹ, Hàn Quốc là những nền kinh tế dành ưu tiên gói hỗ trợ cho đầu tư công nhiều nhất; các nước Australia, Đức, Anh, Nhật Bản, Hong Kong chỉ dành một tỷ trọng đáng kể cho khuyến khích tiêu dùng; trong khi đó Singapore, New Zealand lại dành ưu tiên phân bổ nguồn lực cho đào tạo. Nói cách khác, đa số các nền kinh tế tiên tiến chỉ chọn 1-2 hướng tập trung để phân bổ các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế và Việt Nam cũng nên lưu ý đến vấn đề này.
Bên cạnh các lĩnh vực chính sẽ ưu tiên phân bổ gói hỗ trợ, Việt Nam cũng phải tính toán hiệu quả số tiền sẽ bơm vào nền kinh tế. Theo tính toán của một chuyên gia kinh tế, mỗi đồng tiền đưa vào kích thích cần có khả năng xoay vòng tạo ra 3-4 lần giá trị trong ngắn hạn và 9-10 lần trong dài hạn. Điều này đòi hỏi các nước phải nhìn vào thực tế chất lượng tăng trưởng thời gian qua.
Thông thường Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) sẽ cho chúng ta biết một đồng sản lượng được tạo ra bởi bao nhiêu đồng vốn; ICOR càng cao tức là càng cần nhiều vốn để tạo ra tăng trưởng và việc giảm chỉ số này là một tín hiệu tốt. Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2019 (trước khi đại dịch xảy ra) liên tục giảm, bình quân chỉ đạt 6,13, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
Tuy nhiên bước sang năm 2020, Chỉ số ICOR đã tăng lên 14,28 (do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh; hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ; các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực), dẫn đến hệ số ICOR bình quân giai đoạn 2016-2020 bật tăng trở lại lên 7,04. “Với việc sẽ bơm một lượng tiền lớn trên dưới 10% GDP để phục hồi trong bối cảnh hiệu suất giảm dần đòi hỏi Việt Nam phải dành ưu tiên cho cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất để sử dụng đồng vốn đạt hiệu quả như mong đợi” – các chuyên gia khuyến nghị.
Trung Anh