Ngành ngân hàng vẫn “sống tốt, sống khỏe” bất chấp đại dịch
6 tháng đầu năm, lợi nhuận của các ngân hàng đều tăng trưởng hai chữ số đưa ngành này trở thành “ngôi sao sáng” của nền kinh tế và là một trong số ít ngành chống chọi tốt giữa tâm dịch.
Lợi nhuận khủng
Theo đó nửa đầu năm nay đã có 3 ngân hàng báo lãi trước thuế trên 10.000 tỷ đồng gồm: Vietcombank ở vị trí dẫn đầu với mức lợi nhuận ước khoảng hơn 13.000 tỷ đồng; vị trí thứ hai và thứ ba thuộc về VietinBank và Techcombank với mức lợi nhuận lần lượt đạt 13.000 tỷ (+75%) và 11.526 tỷ (+71%). Nhóm ngân hàng quy mô lợi nhuận thấp hơn như VPBank tăng trưởng 37%, MB (+56%), ACB (+66%), VIB (+68%), TPBank (+48%), MSB (+188%), LienVietPostBank (+100%), OCB (+42%). Riêng top các ngân hàng có lợi nhuận dưới nghìn tỷ đồng báo lãi tăng bằng lần so với cùng kỳ như NCB (gấp 5 lần), Viet Capital Bank (gấp 5 lần), Kienlongbank (gấp 7 lần).
Theo các chuyên gia phân tích ở Công ty chứng khoán ACB (ACBS), sở dĩ ngành ngân hàng vẫn “sống tốt, sống khỏe” giữa tâm dịch là nhờ ba yếu tố. Thứ nhất, các ngân hàng đã giảm thiểu được rủi ro tín dụng và nợ xấu phát sinh mới nhờ hoạt động giải ngân tín dụng được triển khai một cách thận trọng và chặt chẽ hơn giai đoạn trước. Thay vì phụ thuộc vào cho vay doanh nghiệp, các ngân hàng cũng đẩy mạnh xu hướng cho vay bán lẻ giúp rủi ro được phân tán.
Thứ hai, lợi nhuận của các ngân hàng các khoản vay được cơ cấu theo Thông tư 01 và Thông tư 03 cũng không ảnh hưởng nghiêm trọng tới như dự đoán trước đó. Trên thực tế, dư nợ cho vay tại các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng bởi dịch bệnh như du lịch, nhà hàng, khách sạn… chiếm tỷ trọng thấp, chỉ khoảng 1% dư nợ cơ cấu của toàn ngành.
Thứ ba, lợi nhuận của ngân hàng tăng trưởng mạnh nửa đầu năm nay là do nhiều ngân hàng đã nới rộng được chênh lệch thu, chi từ lãi nhờ sự cộng hưởng của hai yếu tố: lãi suất cho vay giảm chậm hơn so với lãi suất tiết kiệm; tăng trưởng tiền gửi từ dân cư thấp kỷ lục nửa đầu năm, một số ngân hàng cũng gia tăng nguồn vốn giá rẻ khác ngoài tiền gửi có kỳ hạn giúp cải thiện chi phí vốn. Chênh lệch thu, chi từ lãi nới rộng khiến biên lãi thuần (NIM) của ngân hàng tăng cao.
Tuy nhiên ông Nguyễn Quốc Hùng – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng lại cho rằng lợi nhuận của từng ngân hàng đến từ các mảng kinh doanh khác nhau, chứ không hẳn từ vấn đề chênh lệch lãi suất huy động và cho vay. Ông Hùng thừa nhận chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra nới rộng hơn trong năm nay nhưng mức chênh lệch này chưa tính toán tới chi phí rủi ro tín dụng tăng lên với các ngân hàng. Với những khoản nợ tiềm ẩn đang được tái cơ cấu nhưng chưa thành nợ xấu, các ngân hàng sẽ phải tăng chi phí trích lập dự phòng theo lộ trình ba năm. Điều này đồng nghĩa với lợi nhuận tăng không phải do ngân hàng lợi dụng việc giảm lãi suất đầu vào nhưng giữ nguyên lãi suất cho vay.
Theo Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng, bên cạnh việc dựa vào biên lãi thuần, cũng cần phải đánh giá khách quan các ngân hàng dựa trên hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) do ngân hàng là ngành cần vốn lớn trong kinh doanh. Trong Top 10 doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn nhất trên sàn chứng khoán thì có đến 6 đơn vị là ngân hàng.
Ngoài thu lãi thuần từ hoạt động tín dụng (vốn đóng góp trung bình 75% thu nhập hoạt động), lợi nhuận của các ngân hàng còn đến từ nhiều nguồn khác nhau: thu nhập bất thường; thu dịch vụ (bảo hiểm hoặc thanh toán…) từ đầu tư kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại hối hay từ thu hồi nợ. Đơn cử như Techcombank và VPBank, nửa đầu năm việc mua bán chứng khoán đầu tư đã đưa về nguồn lợi nhuận hơn nghìn tỷ cho hai ngân hàng này. Hay như tại Vietcombank, mỗi năm dịch vụ thanh toán và kinh doanh ngoại tệ mang về cho ngân hàng này nguồn lợi nhuận hàng ngàn tỷ đồng. Chưa kể 6 tháng đầu năm nay, Vietcombank còn có khoản 1.750 tỷ đồng phí trả trước từ hợp đồng bảo hiểm độc quyền với FWD.
Triển vọng tăng trưởng trong trung và dài hạn
Theo đánh giá của các chuyên gia ACBS, tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của ngành ngân hàng sẽ còn duy trì trong trung và dài hạn chứ không chỉ dừng lại trong nửa đầu năm nay. Đặc biệt NIM vẫn còn dư địa cải thiện nhờ tỷ lệ CASA tiếp tục tăng thông qua số hoá và chiến dịch khuyến mãi thúc đẩy giao dịch trực tuyến, tỷ lệ cho vay bán lẻ ngày càng tăng (có lãi suất tốt hơn cho vay bán buôn). Áp lực giảm lãi suất cho vay từ phía Ngân hàng Nhà nước có thể ảnh hưởng lên lợi nhuận ngân hàng song nhóm ngân hàng quốc doanh sẽ chịu tác động nặng nề hơn so với các ngân hàng tư nhân.
Theo đại diện của một ngân hàng tư nhân, đợt giảm lãi suất mới từ tháng 7 đến hết năm nay (mức độ và quy mô giảm tuỳ thuộc từng ngân hàng) cũng không kéo biên lãi ròng của các ngân hàng xuống thấp, mà sẽ quay trở lại mức năm 2020. Các ngân hàng sẽ phải trích lập dự phòng cho nợ tái cơ cấu theo lộ trình ba năm, tuy nhiên việc trích lập này không ảnh hưởng hết đến toàn bộ ngân hàng mà sẽ có sự phân hóa. Trong đó nhóm ngân hàng có chất lượng tài sản tốt hoặc mạnh về bán lẻ hầu như không bị ảnh hưởng khi rủi ro được phân tán do khách hàng cá nhân thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Hơn nữa họ cũng có nguồn dự phòng khác như tiết kiệm và không phải duy trì các chi phí hoạt động lớn như doanh nghiệp.
Các chuyên gia ACBS cũng đưa ra dự đoán, trong năm nay chi phí dự phòng tín dụng của ngành ngân hàng có thể giảm nhờ chất lượng tài sản đã được cải thiện, ngân hàng cũng chủ động trích lập dự phòng, các khoản nợ tồn đọng và trái phiếu VAMC đã được trích lập dự phòn đáng kể giai đoạn 2018-2020. Chưa kể dư nợ cho vay lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng bởi dịch bệnh chỉ chiếm 1% cơ cấu dư nợ. Chính vì vậy phần lớn các ngân hàng đều rất lạc quan về khả năng thu hồi các khoản nợ này với tỷ lệ thu hồi trên 90%. “Chung quy lại thì ngân hàng chính là mạch máu của nền kinh tế. Chính vì vậy việc lợi nhuận ngân hàng tăng cao là tín hiệu vui bởi có “sống tốt, sống khỏe” thì mới có thể hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển, đóng thuế” – ông Hùng kết luận
Huệ Vân