Doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu khắt khe từ EU

Kể từ ngày 1/8/2020, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) chính thức có hiệu lực, đồng nghĩa với một số nông sản của Việt Nam được phía EU dành hạn ngạch theo đúng cam kết trong Hiệp định. Trong đó mặt hàng gạo xuất khẩu vào EU được hưởng thuế suất 0%, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong ngành…

Với mức tiêu thụ khoảng 2,5 triệu tấn/năm trong giai đoạn 2016 – 2020, EU được đánh giá là thị trường xuất khẩu vô cùng tiềm năng cho ngành gạo Việt. Tuy nhiên đến nay kim ngạch xuất khẩu gạo vào EU hãy còn khá khiêm tốn, chỉ gần 11 triệu USD năm 2019. Trước khi Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực, mỗi tấn gạo của Việt Nam có giá bình quân khoảng 600 USD/tấn, cộng thêm 15% thuế nhập khẩu đã đội giá gạo lên tới 700 USD/tấn; trong khi đó giá bán của gạo Thái Lan và Campuchia tại thị trường EU khá cạnh tranh gây rất nhiều khó khăn cho gạo Việt.

Tuy nhiên khi các cam kết trong EVFTA được thực thi, EU sẽ dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm, trong đó có 20.000 tấn gạo chưa xay xát, 30.000 tấn gạo xay xát và 30.000 tấn gạo thơm. EU cũng sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm, giúp Việt Nam có thể xuất khẩu khoảng 100.000 tấn vào EU hàng năm. Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế suất về 0% sau 3 – 5 năm. Khi không còn chịu thuế suất, giá thành giảm, sức cạnh tranh của gạo Việt tại thị trường EU sẽ được nâng lên rất nhiều. Quan trọng hơn, một khi đã chinh phục thành công thị trường EU, hạt gạo Việt sẽ có một “bàn đạp” vững chắc để tiến công vào nhiều thị trường tiềm năng khác.

Liên quan đến sản phẩm gạo thơm, gần đây Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có đưa ra Dự thảo Nghị định “Quy định về chứng nhận chủng loại gạo thơm xuất khẩu sang EU” nhằm kiểm soát chất lượng gạo đạt đúng tiêu chí mà EU đưa ra. Theo ghi nhận của ông Phan Văn Có – Giám đốc Marketing Công ty TNHH VRICE, các điều khoản, nội dung mà Dự thảo Nghị định xây dựng (doanh nghiệp xuất khẩu gạo thơm sang EU muốn được hưởng ưu đãi hạn ngạch 30.000 tấn/năm miễn thuế phải được cấp chứng nhận chủng loại gạo thơm do Cục Trồng trọt cấp; hoạt động kiểm tra được tiến hành từ đồng ruộng, thời gian 20 ngày trước khi thu hoạch và độ thuần của giống (% số cây) phải không nhỏ hơn 95%…) là toàn toàn phù hợp. Tuy nhiên để làm triệt để, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có cơ chế quản lý, siết chặt chất lượng với các công ty buôn bán thuốc trừ sâu. Theo đó những sản phẩm liên quan tới môi trường, sức khỏe con người phải cấm, vì nếu bắt hộ trồng hay doanh nghiệp theo, không hợp lý.

Cũng theo ông Có, để gạo Việt vào được thị trường EU cũng như tận dụng hiệu quả các ưu đãi từ EVFTA, trước tiên doanh nghiệp phải đáp ứng được các tiêu chí về kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón. Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng nhất để được nằm trong hạn ngạch miễn thuế là doanh nghiệp phải có vùng trồng ổn định; chứng minh được nguồn gốc sản phẩm và giám sát chặt chẽ từ khâu ban đầu đến khi ra được loại gạo đáp ứng được yêu cầu từ EU. “Ngoài các yếu tố trên, doanh nghiệp phải lưu ý vấn đề trung thực. Cụ thể, khi làm thủ tục với các đối tác tại châu Âu, họ sẽ đưa một danh sách dài để điền các thông tin về sản phẩm như vùng trồng, giống, kỹ thuật trồng, vệ sinh an toàn thực phẩm, quyền con người và các chính sách cho người lao động. Họ đề cao tính trung thực của doanh nghiệp nên ban đầu sẽ không kiểm tra gì. Chỉ đến khi ta mang hàng qua, họ sẽ bắt đầu kiểm tra và chỉ cần vi phạm một yêu cầu nào, họ sẽ tiến hành điều tra.

Khi điều tra ra kết quả doanh nghiệp không trung thực, đối tác sẽ trả lô hàng đó và liệt doanh nghiệp vào danh sách “đen”, đồng nghĩa cơ hội làm ăn tại thị trường này chấm dứt. Điều này có nghĩa, muốn trụ vững tại thị trường EU, chúng ta phải đáp ứng tiêu chí họ đưa ra ngay từ đầu và doanh nghiệp cần tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu đó” – ông Có khuyến nghị.

Kim Phương