Dành 17.500 tỷ đồng để phát triển bền vững nông nghiệp Đồng bằng Sông Cửu Long
Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) thực hiện thời gian qua đã làm thay đổi diện mạo nông thôn của vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nhiều hoạt động sản xuất, văn hóa, du lịch cộng đồng, bảo vệ môi trường được tổ chức hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, phức tạp, vùng ĐBSCL đang gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Trước đòi hỏi có một giải pháp lâu dài cho vùng này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) đã xây dựng Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu, gắn với xây dựng NTM vùng ĐBSCL.
ĐBSCL có 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có tổng diện tích 3,94 triệu ha, chiếm 12% diện tích cả nước, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 27,4% và dân số 18 triệu người, chiếm 20% dân số cả nước.
Giai đoạn 2016-2019, nông nghiệp của vùng đạt tốc độ tăng trưởng GDP trung bình khoảng 3%/năm, cao hơn mức tăng trưởng bình quân của toàn ngành (2,7%/năm). Nông nghiệp ĐBSCL đóng góp khoảng 34,6% GDP toàn ngành nông nghiệp cả nước và 33,5% GDP chung của vùng ĐBSCL.
Năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản ĐBSCL đạt trên 8,5 tỷ USD chiếm 56,7% kim ngạch xuất khẩu chung của vùng và chiếm khoảng 20,1% kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước, trong đó gạo chiếm 80% kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước; cá tra chiếm 95%; tôm chiếm 60% và trái cây chiếm 65%.
Theo đánh giá của Bộ NNPTNT, chương trình xây dựng NTM đã làm thay đổi diện mạo nông thôn của vùng, nhiều hoạt động sản xuất, văn hóa, du lịch cộng đồng, bảo vệ môi trường được tổ chức sôi nổi, rộng khắp, hiệu quả và thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn.
Đến nay, vùng ĐBSCL đã có 18 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn NTM và 666 xã được công nhận đạt chuẩn NTM (chiếm 51,83% tổng số xã trong khu vực), bình quân 16,65 tiêu chí/xã.
Các tiêu chí đạt chuẩn chiếm tỷ lệ cao gồm: Quy hoạch, lao động, quốc phòng và an ninh, thông tin và truyền thông… Các tiêu chí đạt chuẩn chiếm tỷ lệ thấp gồm: môi trường, giao thông, cơ sở vật chất văn hóa, trường học, hộ nghèo…
Mặc dù vậy, phát triển nông nghiệp vùng ĐBSCL đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức lớn, khi là một trong những đồng bằng chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng. Các hoạt động phát triển thượng nguồn sông Mekong, đặc biệt là thủy điện, chuyển nước khỏi lưu vực hệ thống đã làm suy giảm nhanh diện tích rừng, thảm thực bì, thay đổi quy luật dòng chảy và lượng phù sa khi vào đến địa phận vùng châu thổ của Việt Nam.
Những điểm bất hợp lý trong quá trình phát triển kinh tế nội tại của vùng bắt đầu bộc lộ như: canh tác nông nghiệp thâm canh chạy theo năng suất và số lượng, sử dụng nhiều phân bón vô cơ và hóa chất nông nghiệp dẫn đến ô nhiễm nguồn nước sông ngòi, khai thác sử dụng nước ngầm làm sụt lún đất, việc khai thác cát quá mức dẫn đến sạt lở bờ sông, bờ biển.
Hệ thống canh tác nông nghiệp cả trồng trọt và thủy sản đều chưa thích ứng tốt với các biến đổi của lũ và hạn mặn nên đã chịu nhiều thiệt hại.
Bộ NNPTNT cho biết, chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 324/QĐ-TTg ngày 02/03/2020, trong đó nhấn mạnh một số quan điểm chính như: Tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp quá mức vào tự nhiên.
Chủ động, tích cực thích ứng và tận dụng cơ hội từ BĐKH, coi nước mặn và nước lợ là nguồn tài nguyên cho phát triển. Xem xét các kịch bản cực đoan để chuẩn bị các giải pháp giải quyết tình huống khẩn cấp, đặc biệt là các kịch bản thiên tai có ảnh hưởng đến tính mạng con người.
Thay đổi tư duy an ninh lương thực dựa vào cây lúa, xoay trục chiến lược sang thủy sản-trái cây-lúa gạo phù hợp với thị trường, tuy nhiên phải dựa trên hệ thống canh tác đã hình thành và điều chỉnh dần trong tương lai…
Mục tiêu của chương trình nhằm tăng GDP nông nghiệp đạt trên 3%/năm đến năm 2030 và tiếp tục duy trì ở mức trên 3% đến 2045. Chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn được nâng cao, thu nhập bình quân đầu người/năm khu vực nông thôn đến 2030 tăng ít nhất 2 lần so với năm 2018 và đến 2045 tăng ít nhất 2,5 lần so với 2030. Tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 30% tổng số lao động đến 2030 và xuống dưới 20% đến 2045. Tỷ lệ nông dân được đào tạo nghề nông nghiệp đạt trên 30% đến 2030 và trên 50% đến 2045.
Về mục tiêu môi trường, phấn đấu tỷ lệ sản lượng sản phẩm trồng trọt, thủy sản nuôi trồng được cấp chứng nhận sản xuất bền vững trên 20% đến 2030 và 50% đến 2045. Tỷ lệ cơ sở sản xuất chăn nuôi trên địa bàn xử lý chất thải bằng biogas hoặc các giải pháp công nghệ xử lý, sử dụng hiệu quả, sạch đạt 50% đến 2030 và 70% đến 2045. Tỷ lệ diện tích đất sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản được tưới tiêu hiện đại, thân thiện môi trường đạt trên 30% đến 2030 và 50% đến 2045, không còn sử dụng nước ngầm cho sản xuất. Tỷ lệ diện tích rừng sản xuất được quản lý bền vững có xác nhận đạt 50% đến 2030 và 80% đến 2045.
Giảm cường độ phát thải khí nhà kính từ sản xuất nông nghiệp/GDP nông nghiệp năm 2030 xuống 20% so với 2010 và năm 2045 xuống 40% so với 2010.
Kinh phí dự kiến thực hiện Chương trình tổng thể (không gồm nguồn vốn đầu tư) khoảng 17.500 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước: 5.500 tỷ đồng; vốn tư nhân 12.000 tỷ đồng.
Thu Hương