Sản xuất vải đang là “nút thắt cổ chai” của ngành dệt may Việt Nam

Chiều 29/6, tại Hà Nội, Chương trình nghiên cứu chiến lược Mekong-Trung Quốc (MCSS) đã công bố báo cáo “Dệt may Việt Nam: Tác động của Covid-19 và xa hơn nữa”. Báo cáo đã chỉ ra một loạt khó khăn của ngành dệt may Việt Nam liên quan đến Covid-19 và các Hiệp định Thương mại tự do (FTA).

Theo Giám đốc Chương trình MCSS, Trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện báo cáo TS. Phạm Sỹ Thành, ngành dệt may Việt Nam đã tạo việc làm cho gần 2,6 triệu lao động, giải quyết 20% lao động ngành công nghiệp và gần 5% tổng số lao động cả nước.

Năm 2019, dệt may là ngành có mức xuất khẩu lớn thứ ba với kim ngạch gần 40 tỷ USD, đóng góp khoảng 15% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Sắp tới, khi FTA giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam – EVFTA được đưa vào thực thi, thuế bình quân với hàng may mặc Việt Nam sẽ được giảm từ 12% về 0%.

Nhóm nghiên cứu của MCSS chỉ ra rằng, đại dịch Covid-19 đã có những tác động tiêu cực đối với cả nguồn cung và đầu ra của ngành dệt may. Xét theo các thị trường xuất khẩu chủ chốt, 5 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm 14,9%, thị trường EU giảm 19%.

“Hiện tại, ngành dệt may Việt Nam đang gặp khó khăn về đầu vào, lao động, doanh thu và xuất khẩu. Bên cạnh đó, còn có những rào cản về chính sách, khi quá ít doanh nghiệp dệt may thụ hưởng các giải pháp hỗ trợ (chỉ 133/3.143 doanh nghiệp, chiếm 3,6% tổng doanh nghiệp được khảo sát đã tiếp nhận được các chính sách hỗ trợ) hay việc khó tiếp cận được các giải pháp hỗ trợ tín dụng”, TS. Phạm Sỹ Thành nhấn mạnh.

Hiệp hội Dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực dệt may cũng cho rằng, việc giãn, giảm hoặc miễn thuế không có nhiều tác dụng tích cực đối với doanh nghiệp của ngành. Bên cạnh đó, quy định hoãn đóng bảo hiểm xã hội hiện chưa hợp lí, người lao động không được hỗ trợ hiệu quả.

Song song với đó, nhóm nghiên cứu của MCSS nhận thấy, sản xuất vải đang là “nút thắt cổ chai” của ngành dệt may Việt Nam. Cụ thể, nhập khẩu vải và nguyên phụ liệu ngành dệt may hiện đang chiếm khoảng 40% giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc; trong đó, 70% vải nhập khẩu phục vụ cho mục đích may xuất khẩu. Như vậy, chi phí cho nhập khẩu nguyên phụ liệu đang chiếm khoảng 30% tổng giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp.

Về các FTA, tính đến năm 2020, Việt Nam đã ký và có 12 FTA có hiệu lực, 1 FTA đợi phê chuẩn và đang đàm phán 3 FTA khác. Việc ký kết FTA đem lại cho ngành dệt may những ưu thế cạnh tranh xuất khẩu vô cùng to lớn.

Cụ thể, thuế suất áp dụng đối với ngành dệt và nguyên liệu với ngành may trung bình là 0-5% (trong khi đó theo quy chế của WTO, thuế suất với ngành dệt và nguyên liệu trung bình là 12% và với ngành may mặc là 25%).

Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam hiện tại không có chuỗi cung ứng đầy đủ, vì vậy, rất khó tận dụng lợi thế của các FTA. Một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ tận dụng FTA của Việt Nam rất thấp là không tự chủ được vấn đề xuất xứ hàng hóa.

Hơn nữa, dù được cho là có lợi ích lớn từ các FTA song các lợi ích này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết. Báo cáo của MCSS cho thấy, tỷ lệ tận dụng FTA của Việt Nam chỉ đạt trung bình 30-35%, đồng nghĩa với việc Việt Nam chỉ mới tận dụng được 1/3 lợi ích từ các FTA đã có hiệu lực.

Theo đánh giá của MCSS, Việt Nam không dễ dàng tận dụng được ưu đãi của các FTA thế hệ mới như EVFTA hay trước đó là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Lý giải về đánh giá này, MCSS cho rằng, EVFTA có thể mở đường cho các doanh nghiệp Việt Nam có ý định thay đổi chiến lược nguồn cung vì Việt Nam có thể gia tăng nhập nguyên liệu từ những nước đã có FTA với EU để đảm bảo quy tắc xuất xứ hàng hóa.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện trên thực tế không dễ dàng như vậy bởi giá hàng hóa nhập khẩu từ một quốc gia khác (ví dụ nhập khẩu từ Hàn Quốc) có giá cao hơn 15-20% so với nhập khẩu từ Trung Quốc.

Với thị trường các nước thành viên CPTPP, MCSS cũng nhận định, Việt Nam chưa khai thác được các thị trường tiềm năng trong khối như Mexico, Australia, Newzealand hay Canada. Đặc biệt, Australia và Canada là hai thị trường có quy mô sử dụng hàng dệt may khá lớn, khoảng 10 tỷ USD/năm, trong khi thị phần xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào 2 thị trường này còn tương đối nhỏ, chỉ khoảng 500 triệu USD/năm.

Bàn về giải pháp giải quyết những khó khăn kể trên, TS. Phạm Sỹ Thành nhấn mạnh, khi EVFTA được phê chuẩn, dệt may Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn vào sáng tạo để tạo ra nhiều giá trị tăng thêm cho ngành.

“Để làm được việc đó, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, Nhà nước cần có những thay đổi mạnh mẽ về chính sách và cơ cấu thuế, giá phù hợp”, TS. Phạm Sỹ Thành nhấn mạnh.

Duy Lâm